Nếu phải nói về bản thân...



Ngô thị Thu Thủy

17/11

Giáo viên

Thạc sỹ văn chương

Phật tử tại gia

Đọc sách trồng hoa làm bánh ngắm trẻ con du lịch một mình




**************************************************************************************

Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

Trao Duyên


Trao Duyên
                                                                                                              Sưu tầm và chỉnh sửa

Đoạn trích Truyện Kiều này có nhan đề "Trao duyên" gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756). Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều.
Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Trước biến cố gia đình, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng nàng lại đau lòng vì phụ mối tình với Kim Trọng. Nàng quyết định nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. "Trao duyên" ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình.
Duyên vô hình, là yếu tố định tính, lại đặt trong cái thế của “tình chị, duyên em” cay đắng. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng với nỗi đau tự cắt bỏ duyên tình của Thúy Kiều.
Trăm mối tơ lòng ngổn ngang, đè nặng lên đêm cuối định mệnh của Kiều. Làm sao để Vân có thể chấp nhận chàng Kim, đón một chữ tình dang dở? Vì vậy mà câu thơ mở đầu đoạn trích như lời van xin, như lời cầu khẩn. Kiều cố hạ mình quỳ lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên và nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần như van vỉ:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Một không gian nghi lễ được thiết lập trên cả hai phương diện: lời nói và hành động. Lời nói trang trọng vì nàng không nói nhờ mà là cậy, , không chỉ ướm hỏi mà còn đặt tất cả niềm tin, hy vọng, có trong lời trăng trối . Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Nàng nói “em có chịu lời” chứ không nói  “nhận lời”  vì trong sự gửi gắm của nàng có sắc thái nài nỉ, ép buộc. Cũng không phải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy. Hành động lạy-thưa khiến câu chuyện giờ không còn là của Chị và Em, bức tranh Trao duyên hằn sâu vào câu chữ là hình ảnh của một người ngồi và một người quỳ. Đó là câu chuyện giữa kẻ trên và người dưới, giữa người ban ơn và kẻ chịu ơn. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như thế. Cái động thái thay bậc đổi ngôi, tiên lễ hậu văn đã đẩy Vân vào thế bị động. Vân không thể nói bởi Vân đang đi từ hết ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. Hai từ “cậy” - “chịu” cùng cái cúi đầu của Kiều trước Vân như sợi dây vô hình đã buộc chặt cuộc đời Vân với một cuộc đời khác. Nàng biết, “gánh tương tư” nàng sắp trao cho em vô cùng nặng nề. Nàng hiểu mối tình của mình là “tơ duyên” còn mối tình của Vân chỉ là “tơ thừa. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Kiều ý thức rõ sự thiệt thòi mà em mình gánh chịu nên nàng mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa với em, coi em như ân nhân. Nàng cố ý tạo một không khí trang trọng, vừa tình vừa lễ khiến Vân không thể chối từ.
Vì thế mà giờ đây Kiều phó thác “gánh tương tư” cho em, thổ lộ hết vơi em về mối tình mặn nồng của mình với chàng Kim, để từ đó bộc lộ nỗi đau đớn khôn xiết khi phải hi sinh tình yêu sâu nặng ấy cho gia đình, để vẹn toàn chữ hiếu:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Một loạt những từ “khigợi nhắc những mảng đoạn của ký ức về một thời say đắm của mối tình đầu vượt qua kiềm tỏa của lễ giáo. Đắm mình vào câu chuyện tình yêu Kim-Kiều không phải Kiều đắm trong hạnh phúc hôm qua mà Kiều đang cho Vân thấy nỗi đau, sự mất mát quá lớn lao của nàng. Để thuyết phục em,nàng đã nói ra cái lý của mình: trong cơn gia biến, nàng đã chọn chữ hiếu, hi sinh tình yêu khi cả hai bề không thể vẹn toàn. Rồi nàng lại viện đến tình để thuyết phục em, từng lời thốt ra đau đớn đến xé lòng:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
“Ngày xuân” mang tính ước lệ, chỉ tuổi trẻ hạnh phúc của người con gái. Cùng trang lứa với nhau, vậy mà khi dứt tình ra đi, Kiều coi như tuổi xuân của mình đã hết, hạnh phúc đã mất từ đây, nàng chỉ còn “thịt nát xương mòn” nơi “chín suối”. Lời nàng nghe tủi buồn như tiếng khóc. Về cả lý và tình Vân không thể chối từ. Nàng tác động vào tình cảm ruột thịt ở Vân, vì xót tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Nàng đã gợi dậy ở em đức hi sinh, lòng vị tha vì người thân. Nếu được thỏa nguyện, dẫu chết đi, dưới suối vàng nàng cũng được thanh thản ngậm cười với tiếng thơm là người trọn nghĩa, lây thơm sự hi sinh cao cả của em.

Nói xong lời thỏa nguyện bình sinh và hàm ơn với em, Kiều trao lại cho em kỉ vật tình yêu của nàng với Kim Trọng:
Chiếc vành…của chung
Trao kỷ vật là phút giây thiêng liêng bởi đây là khoảnh khắc cuối cùng của Trao duyên. Đây cũng là lúc Kiều chính thức trở thành người thứ ba, đi bên lề hạnh phúc của người khác. Phải chăng vì thế mà kỷ vật được trao chia cắt rời rạc nằm trong từng đoạn thơ nhỏ: chiếc vành, bức tờ mây rồi đến phím đàn, mảnh hương nguyền. Mỗi kỷ vật trao cho Vân là một mảnh tình yêu cuối cùng tuột khỏi tay Kiều. Với Vân, ấy là vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một trời ký ức, là nhân chứng cho một tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm. Duyên thì trao cho em, nàng dặn dò em phải giữ gìn, nhưng khi trao em kỉ vật, nàng lại khong nỡ buông rời. Lòng đầy tiếc nuối, lưu luyến, lời của nàng như tiếng nấc nghẹn ngào. Lý trí và tình cảm giằng co, dày vò nàng: lý trí thì muốn trao đi, trái tim lại dùng dằng níu giữ lại. Nàng trao duyên mà không trao tình, trao lại kỉ vật cho em mà lòng không dứt được khỏi mối tình với Kim Trọng. Đau xót làm sao khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung!Trong câu thơDuyên này thì giữ, vật này của chung có lẽ là thoáng thảng thốt giật mình, là phút mà tiếng nói của lý trí đã bắt đầu xao động. Hiếu đã trả, Tình đã trao, bước qua ranh giới ranh giới cuối cùng của trao duyên, Kiều sẽ còn lại gì? Cho nên câu thơ  là cả bao nhiêu sự giằng xé, níu kéo khủng khiếp trong tâm hồn, con tim của Kiều. Nguyễn Du đã thể hiện nội tâm của Kiều một cách tinh tế và nhân bản.
Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim. Từ nay, những kỉ vật Kiều trao lại cho em còn là vật làm tin nhắc nhở đến Kiều, để khi Vân có được hạnh phúc thì đừng quên Kiều:
Dù em..
….thác oan
Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, buồn tủi. Nàng thấy mình là “người mệnh bạc”, đáng thương xiết bao.Trong nỗi đau mất mát tình yêu, nàng coi như mình là người đã chết. Tâm thức đang chìm dần trong nỗi đau khôn nguôi. Bắt đầu từ đây Kiều mới thực sự cảm nhận được cái bi kịch của đời mình, bi kịch của sự mất mát, bi kịch của nỗi cô đơn. Đang ngồi với em ở hiện tại, nàng đã tưởng tượng ra linh hồn bơ vơ của mình ở tận mai sau, là linh hồn vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ. Ý nghĩ về cái chết cứ trở đi trở lại ám ảnh Kiều. Không phải tự nhiên mà trong một đoạn thơ ngắn mà Nguyễn Du để dày đặc những từ ngữ hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp nói đến cái Chết, đến cái Hư Vô. Bởi, sau khi trao duyên, trao kỉ vật cho em, Kiều cảm thấy như mình đã chết; tình yêu của nàng quá thắm thiết sâu nặng nên khi mất tình yêu, cuộc sống đối với nàng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng dẫu cho phải chôn thân xứ người, nàng Kiều nguyện sẽ trở về đền đáp mối tình của chàng Kim, bởi linh hồn còn nặng lời thề thủy chung cùng Kim Trọng. Cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ ngọn cỏ lá cây”, với “ hiu hiu gió…” để trở về đền đáp.
 Đó là một ý thức, một tấm lòng thủy chung càng đậm đà trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Nàng coi cái chết của mình là cái chết oan uổng, nên cầu xin ở người sống một chén nước giải oan-một sự cảm thông cho nỗi oan khuất của người buộc phải phụ bạc tình yêu. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!
Trong phút giây nỗi đau trào dâng mãnh liệt, nàng bỗng quên đi thực tại, quên đi người em trước mặt. Nàng rơi vào trạng thái độc thoại. Nỗi bất hạnh hiện lên thật trọn vẹn, cụ thể khiến nàng Kiều vô cùng tuyệt vọng:
 Bây giờ..
…ấy thôi
Bao nhiêu tình cảm yêu thương cũng như nỗi đau đớn tuôn trào ra. “trâm gãy gương tan”, tình yêu tan vỡ khiến tơ duyên ngắn ngủi. Lời thơ như tiếng khóc. Tuy đã trao duyên cho em để trọn nghĩa với người yêu, Kiều vẫn không thôi day dứt, coi mình là kẻ phụ bạc, chịu muôn vàn tội lỗi. Không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy tạ lvô cùng thống thiết, đó là cái lạy tạ tội để vĩnh biệt tình yêu, kết thúc mối tình ngắn ngủi đầy tiếc nuối. Câu “tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà chua chat, cay đắng như vị chia li.đến đây Kiều mới thấm thía đến cùng cực nỗi bất hạnh của mình:
Phận sao…
……….lỡ làng

Đó là lời than oán số phận bất hạnh “bạc như vôi” của Kiều. Rồi từ đây cuộc đời nàng trôi dạt; tình yêu dở dang với nàng cũng đồng nghĩa với cả cuộc đời lỡ làng, lênh đênh chìm nổi. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân tàn hoa rụng, tuổi trẻ hạnh phúc chấm dứt từ đây. Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu , nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng. Trong những phút cuối cùng, nàng cất tiếng thống thiết gọi người yêu:
Ôi Kim lang..
….từ đây
“Thôi thôi” là phút dứt sợi tơ tình. Trao duyên nhưng hóa ra lại là phụ tình. Nhịp thơ cắt 3/3 như tiếng nấc nghẹn ngào và sau đó bao nhiêu đau đớn vỡ òa. Tiếng khóc của Kiều chới với, tuyệt vọng, tiếng khóc vĩnh biệt tình yêu trong đau đớn, bi kịch. Chỉ một từ “phụ” mà nói lên biết bao nhiêu về nhân cách cao đẹp của Kiều. Dù trong đau đớn, bất hạnh, nàng vẫn lo lắng cho hạnh phúc của người yêu, vẫn thương người yêu hơn chính bản thân mình; nàng nhận hết tất cả lỗi về mình. Tấm lòng vị tha, cao thương của Kiều thật hiếm có.
Lời trao duyên như lời trăn trối vĩnh biệt. Trước khi trao duyên, Kiều còn ý thức sống, sau khi trao duyên, nàng đã coi mình là oan hồn chín suối.  Tình yêu tan vỡ với Kiều là hạnh phúc cả đời đã mất, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa. Bi kịch tình yêu ở nàng gắn liền với bi kịch cuộc đời, thân phận bất hạnh. Song dù trong đau đớn, nhân cách nàng vẫn sáng ngời.
Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương và cảm phục nàng bấy nhiêu.

Đoạn “ trao duyên” trong “ Truyện Kiều” là một khúc “ đoạn trường” trong thiên “ Đoạn trường tân thanh”. Bằng  tấm lòng yêu thương sâu sắc đối với người phụ nữ bất hạnh và bằng nghệ thuật tuyệt vời , Nguyễn Du đã dựng lại đoạn “ trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lí, sự vận động nội tâm nhân vật. Chỉ qua đoạn trao duyên , chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh , có ý thức về tình yêu và cuộc sống.

1 nhận xét: