Nếu phải nói về bản thân...



Ngô thị Thu Thủy

17/11

Giáo viên

Thạc sỹ văn chương

Phật tử tại gia

Đọc sách trồng hoa làm bánh ngắm trẻ con du lịch một mình




**************************************************************************************

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

VÌ SAO PHẢI DẠY CÁI MƠI, HỌC CÁCH MỚI? TÔI ĐÃ TÌM THẤY ÁNH SÁNG CHO NỀN GIÁO DỤC! GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ BỘ SÁCH CỦA NHÓM CÁNH BUỒM


Ai quan tâm tới nền giáo dục của chúng ta hiện nay cũng phải than phiền vì sản phẩm giáo dục của chúng ta khiếm khuyết nhiều quá. Tinh hoa cũng có, nhưng hiếm hoi đến đau lòng. Phần đông học sinh của chúng ta trưởng thành trong môi trường giáo dục đang khủng hoảng ngày càng trầm trọng, rồi ra đời ngơ ngáo vì thiếu kĩ năng, bị kiềm tỏa trí lực và tệ nhất là xơ cứng cảm xúc. Nhưng vì thiếu hiểu biết nên nhiều người trưởng thành không nhận ra, và có nhận ra thì cũng không chịu thừa nhận rằng mình là một sản phẩm giáo dục hạn chế. Nếu hài lòng về bản thân, tại sao chúng ta vẫn ao ước mình được là một sản phẩm giáo dục của Mỹ, của Đức, Phần Lan? Và tại sao trong khi thế giới đang tiếp tục đào tạo ra những thế hệ năng động, những nhà khoa học lớn, những nghệ sĩ bậc thầy, những công dân có trách nhiệm và có khát vọng dấn thân cống hiến; thì chúng ta chỉ có thể sản xuất ra những người đi làm mải mốt kiếm tiền đến nỗi trơ lì cảm xúc, những người có nhiều bằng cấp leo lên những vị trí cao để tham nhũng…Chúng ta còn có cả một thế hệ trẻ ngồi đồng chém gió ở vỉa hè, quán café, tiệm net hay lang thang trên mạng để nhập vào một đám đông bạo lực, vô cảm và, trong thích phán xét đạo đức người khác lại cũng không ngần ngại bình phẩm tục tĩu về người mẫu này, hoa hậu nọ. Sản phẩm giáo dục của chúng ta lạc lối và hoang mang như vậy là do đâu?
Vấn đề của chúng ta là gì? 
Hãy nhìn vào thực tế: chúng ta có rất nhiều học sinh điểm cao, học giỏi, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc học sinh của chúng ta có tư duy. Chúng ta ngộ nhận rằng nhồi nhét cho học sinh thật nhiều kiến thức, biến các em thành những cỗ máy học bài và làm bài chuyên nghiệp thì các em sẽ trở nên thông minh và giỏi giang. Nhưng, kiến thức không làm nên trí tuệ; học sinh có thể có rất nhiều tri thức, nhưng nếu không có khả năng tái tạo kiến thức thành những sản phẩm sáng tạo thì tri thức chỉ là vũng nước đọng, là những con điểm vô nghĩa.
Mặt khác, với sự hạn chế của chương trình giáo dục của chúng ta hiện nay, những học sinh chạy đua thành tích, có điểm số cao còn mắc phải vấn đề thiếu cảm xúc, niềm tin, giá trị sống. Nền giáo dục không giúp học sinh giàu có, phong phú nội tâm, không hạnh phúc thì học giỏi làm gì, điểm cao làm gì? Nhiều người ra đời thì có dáng vẻ của người thành đạt nhưng không biết đồng cảm, không khao khát vươn lên những giá trị sống cao quý, sống quay quắt vì đồng tiền và cứ mải miết chạy theo những gì mà người khác kì vọng: thăng chức trong nghề nghiệp, có địa vị xã hội, có uy quyền chính trị hay kinh tế. Tiếc thay, đó đều là những điều nằm bên ngoài tinh thần của một con người, không giúp hoàn thiện một con người chân chính, không giúp khẳng định phẩm tính NGƯỜI, và do vậy con người thành đạt đó không vươn tới hạnh phúc tối thượng với ý nghĩa là những khoái lạc tâm trí. Người học không giải phóng được hoàn toàn năng lực và phẩm tính của bản thân thì suốt đời chỉ luẩn quẩn với những giới hạn mà thôi. Một con người như thế tôi cho rằng còn chưa được khai minh. Và tiếc thay, họ tăm tối nên dễ dãi hài lòng với giá trị của bản thân, trong khi vẫn ao ước những giá trị của người khác, đất nước khác. Nền giáo dục như vậy ai cũng biết là thất bại.
Giáo dục, xét cho cùng là khiến con người sống hạnh phúc với những giá trị nhân bản. Xã hội nào có nhiều người hạnh phúc thì xã hội đó phát triển nhân văn. Nhân loại coi đó là những giá trị phổ quát. Xã hội Việt Nam trọng tình cảm, người ta thường dễ tìm thấy hạnh phúc trong đời sống tình cảm. Nhiều người do đó mà ngộ nhận rằng chúng ta là một dân tộc hạnh phúc. Cái dở ở chỗ sự trọng tình và dễ dãi thỏa mãn của chúng ta lại đi kèm thái độ coi thường tri thức và trí tuệ, cho rằng học vấn không quyết định con người có hạnh phúc hay không. Người Việt vốn không quan niệm được rằng trí tuệ đem lại khoái lạc tâm hồn. Chúng ta không theo đuổi tri thức suốt cả cuộc đời mình; chúng ta ngừng học ngay sau khi kiếm được việc làm; sự học cũng chỉ là để có bằng cấp nhằm tiến thân hoặc lòe thiên hạ. Sùng bái sách nhưng lại không đọc sách; thích là doanh nhân thành đạt hơn là nhà khoa học nghèo khổ; đi học chỉ chăm chăm mục đích kiếm được việc làm ngon lành chứ không muốn kết hôn với công việc… Tri thức với chúng ta chỉ là một công cụ đem lại tiền bạc, địa vị- những thứ mà người Việt chúng ta cho là đem lại hạnh phúc. Vậy nên, trong khi quay quắt với giấc mơ thành đạt, chúng ta tạm an ủi rằng mình có gia đình, có người xung quanh để yêu thương, mình sống đời tử tế, đó chính là hạnh phúc rồi. Hạnh phúc này không khác một đứa trẻ có đồ chơi, một con cừu no cỏ hay con bò được mát xa trước khi vào lò mổ là bao. Chúng ta không thể khiến cuộc đời mình cao đẹp hơn nhờ thứ hạnh phúc đó.
Triết gia Spinoza đã nói: cuộc đời đạo đức chính là phần thưởng đẹp nhất dành cho con người, là hạnh phúc. Platon và Aristotle cũng để lại cho nền văn minh châu Âu một lẽ sống mà cả ngàn năm châu Âu đã tôn thờ, rằng hạnh phúc không nên là những khoái lạc giác quan, mà nên là khoái lạc tâm trí, một tâm trí được khai sáng dẫn dắt cho tâm hồn. Chúng ta nên truy cầu hạnh phúc ở một lương tri sáng suốt. Khi đó, hạnh phúc tối thượng sẽ là trạng thái đạo đức viên mãn của con người và xã hội nhân bản sẽ là nguồn nuôi dưỡng niềm hạnh phúc đó. Nền giáo dục của chúng ta đã bao giờ quan niệm được điều đó hay chưa? Hãy nhìn lại, nhìn thẳng vào nền luân lí Nho giáo đề cao nhân nghĩa nay đã đổ nát của chúng ta; hãy thừa nhận rằng thói trọng tình cảm tính, bản năng và thuần túy tự nhiên của cha ông ta là một thứ rất chông chênh, dao động và không kiểm soát được; cả hai nguồn giá trị nhân đạo từng làm nên cốt cách đạo đức của con người và luân lí xã hội ta đó đều đang chết mòn trước sự lên ngôi của đồng tiền và thói giả dối. Chúng không thể ràng buộc đạo đức con người được nữa, không thể cứu vãn một xã hội đang trượt dốc ở mọi phương diện, càng không thể làm con người hạnh phúc nữa. Thay vì tìm nguồn hạnh phúc ở những giá trị bền vững do nhận thức đem lại thì chúng ta quẩn quanh với những tình cảm nhỏ mọn và khiến hạnh phúc của chúng ta thấp bé và đơn sơ như những bản năng tự nhiên. Vì thiếu hiểu biết mà thế giới của chúng ta nhỏ bé; hệ quả là chúng ta cứ tưởng hạnh phúc của mình lớn lao. Tôi có cảm tưởng nhiều người quanh mình tự tại rằng mình viên mãn và hạnh phúc, thực ra chỉ lạc quan tếu mà thôi.
Đã vậy, người Việt hiện nay chọn kiểu sống lập lờ nước đôi, vừa hài lòng với bản thân để ngừng tu dưỡng phẩm tính và trau dồi tri thức, lại vừa ao ước những thứ mà bản thân mình, xứ mình không có. Cả cuộc đời chúng ta chỉ cố gắng để có công ăn việc làm, có chút của cải và địa vị, thế là coi như viên mãn và hạnh phúc. Nhưng thực tế là chúng ta vẫn khao khát một thứ hạnh phúc cao hơn: được thụ hưởng nền giáo dục khai phóng của Thụy Điển, bầu không khí học thuật của nền giáo dục Mỹ, những phẩm chất lí tưởng của người Đức, không gian văn hóa của Anh, lối sống của người Australia..Chúng ta ước có nhiều nhà khoa học và nghệ sĩ bậc thầy, còn giới trẻ của chúng ta tài giỏi, năng động và đầy trách nhiệm.. Điều đó có nghĩa rằng chúng ta vẫn ước ao được phát triển đầy đủ năng lực và phẩm tính hơn so với chúng ta hiện tại; và nhiều người trong số chúng ta không chịu thừa nhận rằng nếu trí tuệ của chúng ta được khai mở, chúng ta sẽ có được tất cả những hạnh phúc đáng mơ ước đó. Với tình trạng khiếm khuyết hiện nay, việc vừa lười biếng tự giáo dục bản thân lại vừa cứ mơ ước được hít thở bầu không khí văn hóa giáo dục Anh, Mỹ, Úc của chúng ta thực là lố bịch.
Muốn xây dựng đạo lý xã hội từ đạo đức con người thì tinh thần nhân đạo, phẩm chất của người tử tế phải được bồi bắp bằng con đường giáo dục, nghĩa là phải kiến tạo từ bên trong, từ sự nhận thức. Những tình cảm nhân đạo tự nhiên chưa thông qua giáo dục khó mà bền vững được. Những phẩm chất tốt đẹp của con người phải xuất phát từ trí tuệ đã được khai sáng. Con người tử tế, tốt lành và hữu ích là con người có tâm hồn được khai mở, được trí tuệ dẫn đường. Những giá trị nhân văn do đó mới bền vững.
Nền giáo dục của chúng ta phải chịu trách nhiệm cho tình trạng thấp kém và những mơ ước tội nghiệp của người Việt hiện nay. Một nền giáo dục khiến người học ra đời chỉ quẩn quanh kiếm tìm hạnh phúc ở chuyện có công ăn việc làm, kết hôn, mua nhà, sinh con, đi du lịch mỗi năm hai lần, có nhiều bạn bè, không vi phạm pháp luật.. khiến con người dễ dãi chấp nhận một đời sống hạn hẹp với trí tuệ vụn vặt nghèo nàn trong bối cảnh đạo đức xã hội ngày một chông chênh… rõ ràng là đang kìm hãm con người.
Và, trong khi chúng ta cứ cố biến học sinh thành nô lệ cho những tri thức cùn vẹt vô bổ thì thế giới tri thức đã đang phát triển với tốc độ tên lửa; nhiều phát minh, nhiều học thuyết mới ra đời, đặc biệt là các tri thức về tâm lý, nhân học, xã hội học. Xã hội đang báo động rằng chúng ta cần những con người mới, có đam mê và lý tưởng, có tiếng nói nội tâm mãnh liệt, hiểu biết về bản thân trước khi hiểu biết về thế giới, được sống trong niềm hạnh phúc là chính mình, được xã hội tôn trọng vì sự nhân bản và độc đáo của nó, được xã hội khuyến khích và bảo vệ. Trong khi đó, nhà trường của chúng ta thì vẫn hì hụi đào tạo ra những kẻ săn việc làm, thúc ép học sinh phải trở thành con người hay cái máy lao động sản xuất mà xã hội yêu cầu; và người đi học, đi làm thì bị đánh giá năng lực và phẩm giá dựa trên những giá trị ảo vốn làm thấp kém con người như tiền bạc, hư danh, địa vị…Chúng ta muốn có những sản phẩm giáo dục mà ở họ ta có thể thấy trí lực, phẩm giá được thăng hoa thì phải được dẫn đường bởi một triết lí giáo dục nhân bản, khai phóng, vì con người; một chương trình giáo dục chú trọng xây dựng ở người học những giá trị sống và năng lực thực tiễn, khiến người học được khai minh cả về trí tuệ lẫn tâm hồn, nhân cách. Con người như thế sẽ biết tự xoay xở với cuộc sống của mình, dù thế giới có thế nào đi nữa.
Cách đây vài thế kỉ, những nhà khai sáng như J.J Rousseau, Diderot, Voltaire, Montesquier đã bàn về triết lí giáo dục. Từ khi khoa học bắt đầu phát triển, các triết gia này đã biết rằng tình trạng nô lệ tăm tối do thiếu hiểu biết phải chấm dứt. Decartes nói con người không gì hơn là một cây sậy biết tư duy. Nhờ tri thức, con người sẽ giành lấy quyền thống trị thế giới từ tay thần thánh. Tri thức ngày càng rộng mở, người đi học phải học cách tự học và học suốt đời. Giáo dục do vậy không phải là dạy cho trẻ em kiến thức, mà dạy cho trẻ biết làm thế nào để có kiến thức. J J Rousseau viết trong cuốn Emile hay là bàn về giáo dục: “Vấn đề là chỉ ra cho nó cần làm thế nào để luôn khám phá ra sự thật hơn là nói cho nó biết một sự thật. Nhờ tự học mà đứa trẻ sẽ có một đầu óc cởi mở, thông minh, sẵn sàng cho tất cả, có khả năng lĩnh hội bất kỳ điều gì”. Đó chính là đặc điểm của CON NGƯỜI TỰ DO. “Con người tự do là con người khi tư duy, khi hành động không bị ràng buộc bởi vật chất, thành kiến, không bị những đam mê mù quáng khống chế. Đó là con người trưởng thành và độc lập trong tư duy, tự chủ trong phán đoán, biết sử dụng lý trí của mình để suy xét, quyết định và hành động một cách hợp lẽ. Con người đó không “phục tùng luồn cúi như một nô lệ”, cũng không có “giọng điệu hách dịch của một chủ nhân” . Con người đó luôn sống và tỏ ra chính là mình, là chủ nhân của chính mình. Đến nay, rất nhiều quốc gia đã áp dụng triết lý giáo dục này để xây dựng nền giáo dục tiến bộ và nhân văn. Đây à một triết lý giáo dục mà chúng ta rất cần bây giờ.
Để đạt được mục tiêu giáo dục khiến học sinh trở thành những con người tự do, thì phải có chiến lược phát triển con người. Xã hội tôn trọng con người là xã hội có bản chất nhân văn và nó đương nhiên sẽ khuyến khích con người cống hiến vì thông qua cống hiến mà con người tỏa sáng. Xã hội nào bắt ép con người phải hi sinh chính nó cho những mục tiêu chính trị xã hội, tước đoạt của con người sự hiểu biết, phẩm giá, làm thui chột năng lực tư duy, sự sáng tạo và bắt con người chạy đua theo những giá trị thấp kém, xã hội đó không đáng được con người dấn thân cống hiến. Nó sẽ sản sinh ra rất nhiều những con người nô lệ cho ngu dốt, khuất phục và bám víu vào thần linh, sợ hãi tri thức vì tri thức làm đau trí não. Nó sẽ đẻ ra đầy rẫy hạng người sẵn sàng bẻ vụn từng miếng nhân phẩm để đổi ấy danh vọng, của cải. Đó là những cá thể sinh ra lành mạnh nhưng càng trưởng thành thì sẽ càng khiếm khuyết. Những cái họ tưởng có thể xoa dịu, lấp đầy sự khiếm khuyết của họ là những thứ phù phiếm nhất: vật chất để thỏa mãn giác quan và hư danh để lừa mị, trấn an bản thân.
Hãy thừa nhận, trong bối cảnh thế giới khai sáng với những giá trị nhân văn thì chúng ta cứ luẩn quẩn với cách giáo dục thiển cận và vô minh. Chúng ta đang tước đoạt đi của lớp trẻ cơ hội sống hạnh phúc với những giá trị chân chính mà thời đại đòi hỏi. Bi kịch của các thế hệ học sinh bây giờ là khi chúng trưởng thành mà không được trở thành chính mình, chúng phải trở thành những kì vọng tàn nhẫn của người lớn thì chúng sẽ không chịu trách nhiệm về chính mình. Chúng sẽ đổ lỗi hoàn toàn cho người lớn. Người học đó vừa tối tăm, nô lệ, vừa vô trách nhiệm.
Chúng ta phải thay đổi.
Muốn vậy, phải tiễu trừ tư tưởng đàn áp cá thể và tinh thần sùng cổ, nhường chỗ cho trí tuệ nảy nở và sự sáng tạo thăng hoa; tận diệt thói chạy đua những giá trị ảo từ trong nhà trường và chú trọng con người tư duy và con người cảm xúc. Nền giáo dục của chúng ta cũng cần thay đổi từ lối dạy áp đặt, nhồi sọ những tri thức lỗi thời sang hình thành cho học sinh năng lực tự học. Làm mới tri thức, sáng tạo nghệ thuật và thực hành lối sống đẹp phải trở thành mục tiêu dạy học. Sự thực hành và sự sáng tạo cần được đề cao. Học sinh được hoạt động, tự làm ra sản phẩm giáo dục cho chính mình. Giáo viên phải lấy học sinh để đánh giá kết quả giáo dục. Việc học phải làm cho học sinh thấy được đi học là niềm vui, niềm hạnh phúc. Chương trình giáo dục mới cũng cần phải tôn trọng người học thay vì chỉ tôn trọng người dạy.
Tôi đã tìm thấy một bộ sách giáo khoa đáp ứng được nhưng mục tiêu và phương pháp giáo dục đó, dựa trên triết lí giáo dục của Hegel, J J Rouseau và Piaget. Bộ sách giáo khoa văn, tiếng Việt và lối sống do nhóm Cánh Buồm thực hiện dưới sự chịu trách nhiệm chính của nhà giáo Phạm Toàn và Gs. Hồ Ngọc Đại. Dù đã ngoài tuổi 80, nhà giáo Phạm Toàn vẫn đang hết sức mình cống hiến cho mục đích khai dân trí. Ông vẫn ngày đêm trăn trở tìm cách cống hiến nhưng tinh hoa trí tuệ sư phạm cho nền giáo dục Việt Nam.
Từ năm 2009 đến năm 2014 nhóm Cánh buồm đã hoàn thành bộ sách giáo khoa Văn, Tiếng Việt bậc Tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 và đã hướng dẫn thực hành, áp dụng thành công ở Trường Olympia International tại Hà Nội, chỉ với phí thực hiện chừng 300 triệu đồng trong 5 năm, do các nhà hảo tâm tài trợ, không mất một đồng thuế nào của người dân VN.
Ở bài viết này, tôi chỉ xin điểm qua nội dung bộ sách dạy văn THCS do nhóm Cánh Buồm biên soạn.
***
Sự ưu việt của bộ sách đọc văn này là gì: sự phong phú và tự do của nó.
Bộ sách này giàu có, phong phú vì so với cách xây dựng chương trình văn học hiện nay, nhóm soạn sách đã thay đổi hoàn toàn trục tác phẩm. Với cách giới thiệu hệ thống theo trục thể loại, chia ra làm ba bộ phận cơ bản là trữ tình, kịch và tự sự, nhóm biên soạn Cánh Buồm có cơ hội giới thiệu cho người học một khối lượng khổng lồ vô cùng đa dạng thành tựu văn học của nhân loại. Từ trước đến nay sách giáo khoa văn học của chúng ta theo trục thời gian, nghĩa là lịch sử đi tới đâu, văn học minh họa tới đó; và do đó văn học bị dính liền với lịch sử. Văn học do đó gần như là da thịt đắp ngoài bộ xương lịch sử, thậm chí là minh họa cho tư tưởng của thời kì lịch sử đó. Học sinh của chúng ta đã quá ngán vì phải học thứ văn chương tuyên truyền non kém về chất lượng nghệ thuật và nghèo nàn, áp đặt về nội dung tư tưởng.
Bộ sách còn là một thế giới nghệ thuật tự do vì nó không giới hạn người học; không phân biệt, không định hướng đầu óc học sinh. Tác phẩm văn học nào trăn trở với phận người, tôn vinh những giá trị làm người cao đẹp, khơi gợi những cảm xúc cao quý, được nhân loại tiến bộ thừa nhận thì được Cánh Buồm giới thiệu đến người học.
Điều đáng nể nữa là, song song với việc giúp học sinh tiếp cận các tác phẩm văn học, nhóm biên soạn đã khéo léo và rất tinh tế lồng vào đó tri thức về rất nhiều nhóm ngành khoa học, nghệ thuật đồng thời đặt những nền tảng kiến tạo giá trị sống, lối sống cho học sinh. Tôi khó hình dung được bao nhiêu chất xám đã đổ vào bộ sách này để học sinh có được những bài học nhẹ nhàng mà tinh diệu, sâu xa và đẹp đẽ như thế.
Với bộ sách này, văn học được tiếp cận dưới góc độ là một bộ môn nghệ thuật và nhóm biên soạn rất chú trọng khả năng tác động đến cảm xúc, thanh lọc tinh thần người học của văn chương. Bấy lâu chúng ta quan niệm về nghệ thuật khác nhiều so với người phương tây, nói rộng ra là chúng ta một mình một phách, đi ngược lại với cả thế giới. Thái độ cơ bản của chúng ta đối với nghệ thuật là thái độ vừa sùng kính vừa miệt thị, lại phân biệt nghệ thuật thuần túy vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Chúng ta hô to “nghệ thuật không có biên giới” nhưng chúng ta lại kì thị, phân biệt giới nghệ sĩ với các giới khác và đặt ra nhiều rào cản khiến nghệ thuật trở nên èo uột, không có đất phát triển. Điều này có lỗi một phần lớn từ Nho giáo, song chủ yếu là vì chúng ta không chịu thay đổi lối sống bất cần nghệ thuật. Hậu quả là chúng ta chưa bao giờ vươn lên được tầm cao văn hóa nghệ thuật tương đương với thế giới. Thành thử chúng ta với nghệ thuật, chúng ta vừa xa lánh, lại vừa thèm muốn.
Bộ sách này có tham vọng vừa khơi gợi tri thức, vừa mở ra thế giới cảm xúc cho người học, chủ trương phát huy những cảm xúc tự nhiên và nhân bản. Bởi vì, đối với nghệ thuật, không thể có sự cưỡng ép và giả dối trong cảm xúc, cả ở người nghệ sĩ lẫn người tiếp nhận. Học sinh phải được tiếp cận tác phẩm nghệ thuật với tâm hồn và cảm xúc tự nhiên của mình. Việc bồi đắp tâm hồn phải thông qua những cảm xúc tự nhiên và với một tình yêu hoàn toàn tự nguyện chứ không thể bằng những mệnh lệnh đạo đức, và sự cưỡng chế cảm xúc. Người sáng tác văn chương tuyên truyền không thể có cái chân thật và nhân bản này, sao có thể đòi hỏi người đọc cảm xúc lành mạnh, nhân văn. Người giáo viên cũng không có quyền đòi hỏi học sinh phải trả bài cảm xúc cho mình, vì điều đó có nghĩa là bắt ép học sinh phải giả dối. Có cái giả dối nào tệ hại bằng giả dối cảm xúc?
Bộ sách này giúp học sinh làm giàu tri thức khoa học về các môn nghệ thuật nói chung, nghệ thuật ngôn từ nói riêng, gợi mở suy tư và dẫn lối tâm hồn của người học. Chúng ta hãy yên tâm rằng nhóm biên soạn đã chọn cho học sinh của mình những tuyệt phẩm có ý nghĩa nhân văn rất đẹp đẽ và có giá trị vượt thời gian.
Thử nhìn vào cuốn sách văn lớp 6 xem học sinh của chúng ta sẽ học được gì.
Cuốn sách có tên là CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT gồm 6 bài chính, giới thiệu về thơ, tự sự, hội họa-mỹ thuật, âm nhạc và kịch.
Trước khi dẫn dắt học sinh khám phá nghệ thuật, người biên soạn muốn đặt nền móng đầu tiên cho học sinh, đó là sự đồng cảm đối với người nghệ sĩ. Muốn thưởng thức nghệ thuật, trước tiên phải hiểu thiên chức của nghệ sĩ, có thái độ trân trọng đối với nghệ thuật và người sáng tạo nghệ thuật. Những phần dẫn luận này rất giản dị nhờ được trình bày bằng văn phong trong sáng dễ hiểu và lôi cuốn. Bằng việc trả lời các câu hỏi vì sao người ta làm thơ, vì sao người ta viết văn tự sự, vẽ, sáng tác nhạc, chơi kịch… nhóm biên soạn dẫn dắt người học đi qua lí luận nghệ thuật để lấy đó làm công cụ suy tư, đồng thời giúp người học học cách làm bài nghiên cứu.
Những tác phẩm được giới thiệu là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, thơ ngụ ngôn của La Fontain, bài thơ Cánh buồm của Lermontov; tập truyện của Duy Khán, Cuốn sách của bạn tôi của nhà văn Anatole France với lời giới thiệu của thầy giáo Andre Menras, bài viết tìm hiểu về họa sư Nam Sơn- người đặt nền móng cho nền mỹ thuật hiện đại của VN và Tranh Tết …
Phải nhắc lại lần nữa là những bài học này được thiết kế giản đơn nhưng hấp dẫn, giàu có tri thức đến không ngờ, chắc chắn học sinh rất yêu thích. Sau khi được học, các em có được một nền tảng tri thức phong phú, cảm xúc đẹp và tinh thần trân trọng đối với khoa học và nghệ thuật. Đó là nền tảng của trí tuệ và xúc cảm rất cần thiết cho sự phát triển con người. Bài học cuối năm rất quan trọng là bài cảm hứng nghệ thuật, đặt ra một số đề tài để học sinh lựa chọn viết bài luận thu hoạch để tự tổng kết một năm học của mình.
Sách văn lớp 7 có tên là GIẢI MÃ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
Giải mã tác phẩm nghệ thuật không phải là chụp mũ cảm xúc cho học sinh, đánh giá cảm xúc của học sinh đúng hay sai. Với bộ sách này, học sinh sẽ không phải đọc hiểu tác phẩm qua những câu hỏi định hướng một chiều kiểu độc quyền lẽ phải hay áp đặt cảm nhận; năng lực học văn của học sinh cũng không bị đánh giá dựa trên những kiến thức máy móc mà các em phải trả lại cho giáo viên. Như đã nói, cảm nhận của các em là tự do, hồn nhiên và chân thật; việc đồng cảm với tác giả không bóp chết sự tự nhiên lành mạnh trong tiếp nhận của các em.
Chương trình dành cho lớp 7 bao gồm Giải mã tác phẩm trữ tình thông qua ca dao VN, thơ ca phương Đông, thơ ca phương Tây và thơ ca VN hiện đại; các em sẽ tìm hiểu cách thức mà các bài thơ ra đời, tìm hiểu về nhạc tính, ngôn từ, tứ thơ, cảm hứng, tìm hiểu về nhà thơ và tâm hồn của họ; Các em cũng sẽ tìm hiểu cảm hứng nhân sinh, cảm hứng thiên nhiên, cảm hứng tôn giáo trong thơ của Đào Uyên Minh, Vương Duy, Đỗ Phủ, thơ đường ở VN. Ngoài ra, học sinh cũng sẽ tự dịch thơ của các nhà thơ phương Tây. Tôi cho rằng đây là hoạt động thú vị mà học sinh sẽ hưởng ứng nhiệt tình. Hoạt động này cho phép học sinh tự do cảm nhận tác phẩm đồng thời đi đến chỗ đồng cảm với người nghệ sĩ. Đây chính là sự đồng sáng tạo, là sự thưởng thức nghệ thuật ở mức độ cao nhất.
Các em cũng sẽ tham gia hoạt động giải mã tác phẩm kịch nghệ qua kịch chèo dân gian, vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, kịch cổ điển châu Âu với vở Trận bão của Shakespeare, Những tên cướp của thiên tài Schiller, Tucaret của Lesage và cuối cùng là chuyển thể kịch với vở Đám cưới Chuột và Hà bá lấy vợ.
Kịch dường như chưa bao giờ được coi là loại hình nghệ thuật đỉnh cao ở VN. Việc dạy kịch trong nhà trường từ trước đến nay chỉ như cưỡi ngựa xem hoa. Việc dạy kịch như một loại hình nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật sân khấu rất bị xem thường ở VN. Điều này xuất phát từ thực tế chúng ta có thói quen chỉ coi trọng nội dung mà bỏ qua sự độc đáo về hình thức của cái Đẹp. Kịch có đặc thù nghệ thuật riêng. Học kịch, học sinh biết thêm những phương thức sáng tạo ra cái Đẹp. Các giá trị nhân văn phải được thấu cảm thông qua hình thức độc đáo. Không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm được nhân loại sùng bái nhất lại là kịch của Eschyle, Euripide, Dante, Goethe, Schiller hay Shakespeare.
Cuốn văn 8 GIẢI MÃ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT TỰ SỰ có thể nói là cuốn thú vị nhất. Nội dung của nó dành cả cho văn xuôi, từ tự sự truyền miệng như truyện cổ tích, thần thoại Hy lạp, sử thi Đăm Săn và một số truyện dân gian; tự sự đương đại: tiểu thuyết lịch sử Chín mươi ba của V.Hugo, Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh; Gulliver du kí, Hoàng tử bé, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Những lời bộc bạch của JJ Rousseau, Bút kí từ nhà chết của Dostoievski, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Linh sơn của Cao Hành Kiện..
Tôi đảm bảo đây sẽ là cuốn sách quan trọng nhất và cũng được yêu thích nhất. Vì sao ư, vì nó còn hơn một cuốn sách văn học. Nó còn là cả một thế giới nghệ thuật đẹp đẽ để trí tưởng tượng của học sinh bay bổng khám phá. Nó cùng học sinh đi tìm phẩm chất người, tính người trong tác phẩm văn học. Nó mở ra một thế giới rộng lớn của văn chương nghệ thuật, văn hóa, lịch sử, tôn giáo, nhân học, xã hội học, tâm lý người.. khắp đông tây, từ cổ chí kim. Học sinh vừa học văn vừa khám phá thế giới tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn như nghi lễ tưởng nhớ thần Promethee của người Hy Lạp cổ đại, nguồn sống và tập tục của người Ê đê, cải cách tôn giáo ở nước Anh, thậm chí là biết đến bối cảnh hoang tàn về phương diện văn hóa tư tưởng của cả châu Âu cũng như thấu cảm với con người cô đơn không biết đi đâu về đâu trong Hoàng tử bé…Đây là một chương trình văn học vô cùng rộng lớn, đầy xúc cảm, bay bổng, tự do, nhân văn và chắc chắn sẽ khai sáng cho học sinh của chúng ta rất nhiều.
Những lời cuối cùng của cuốn sách này dành cho văn hóa đọc mà việc học văn lớp 8 chính là những gợi ý cho việc tiếp cận thư viện và tìm kiếm sách. Cuốn sách nhắn nhủ học sinh rằng văn hóa đọc nâng cao trình độ hiểu biết và tâm hồn con người. Việc đọc theo hướng đối thoại với tác giả sẽ khiến cho người đọc được khai minh về trí tuệ và tâm hồn.
Cuốn Văn 9 có chủ đề NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT bao gồm hai tác phẩm Truyện Kiều và Faust. Đây là năm học của nghiên cứu nghệ thuật, việc chọn hai kiệt tác nghệ thuật của dân tộc và thế giới là không khó hiểu.
Tại sao lại là Truyện Kiều thì chúng ta đều biết, đây là kiệt tác văn học của dân tộc, cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật đều cao cả không tác phẩm nào của nền văn học ta sánh kịp. Bản thân Nguyễn Du cũng là một nghệ sĩ đích thực, đúng nghĩa nghệ sĩ theo quan niệm nghệ thuật phổ quát, chứ không phải là kẻ sĩ làm thơ như nhiều trí thức phong kiến khác vốn làm thơ để ngôn chí, tải đạo. Nghệ thuật cao đẹp ở chỗ nó không phải cưỡng ép mà đồng cảm với con người, không phải giáo huấn mà nâng đỡ con người. Nghệ thuật do đó có giọng điệu bi thương và đời người nghệ sĩ nói chung là bi kịch. Điều này trong thơ và đời của Nguyễn Du khiến cho ông trở thành người nghệ sĩ lí tưởng của nền nghệ thuật Việt Nam. 
Nhóm biên soạn đã đưa ra rất nhiều gợi ý cho học sinh chọn lựa hướng nghiên cứu: bài tổng quan về Truyện Kiều giới thiệu về tác giả và dẫn dắt người học đi qua nhiều tác phẩm khác của Nguyễn Du; bài cách thức truyện Kiều lan tỏa trong đông đảo nhân dân và trong giới trí thức cũng giúp học sinh tiếp cận các giá trị văn hóa của tác phẩm ở những góc độ khác nhau- góc độ văn hóa dân gian và góc độ nghệ thuật bác học. Ngoài ra học sinh nghiên cứu về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du, ngôn ngữ nhân vật trong truyện Kiều.
Còn về Faust, đây là kiệt tác hàng đầu của nhân loại mà tác giả của nó được mệnh danh là một trong tứ đại danh hào của thế giới. Ông đã sáng tạo nên một nhân vật mà mọi người dân Đức đều coi là nguyên mẫu lí tưởng của mình. Đó là tiễn sĩ Faust, một nhà khoa học khao khát làm đầy tri thức, một người yêu lí tưởng và một tâm hồn dằn vặt đau khổ. Chúng ta cũng biết dân tộc Đức là một dân tộc tinh anh đã cống hiến cho nhân loại vô vàn triết gia và nghệ sĩ bậc thầy. Không hề lạ khi dân tộc này đã khai sinh ra một thi hào toàn năng như Goethe. Bậc thầy này đã tặng cho nhân loại một kiệt tác uyên bác về phương diện triết học và cao cả ở phương diện nghệ thuật. Tôi vẫn thường nói với học trò rằng: dân tộc nào yêu triết học và nghệ thuật, dân tộc đó cao cả. Với tác phẩm này, Goethe đã vinh danh loài người, nâng địa vị con người lên hàng thánh thần.
Nếu phải chê điểm gì ở bộ sách này thì tôi cảm thấy phiền lòng vì những tác phẩm văn học lớn của những nhà văn lớn như Lev Tostoy, văn học châu Mỹ, tiểu thuyết cổ điển TQ, Thơ ca Nhật Bản, nghệ thuật phục hưng và các trào lưu nghệ thuật hiện đại và đương đại chưa được điểm qua, rất đáng tiếc. Hy vọng mảnh đất ngon lành đó các tác giả đang để dành cho bộ sách THPT hoặc dự bị đại học.
7-12-2016