Nếu phải nói về bản thân...



Ngô thị Thu Thủy

17/11

Giáo viên

Thạc sỹ văn chương

Phật tử tại gia

Đọc sách trồng hoa làm bánh ngắm trẻ con du lịch một mình




**************************************************************************************

Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

Động từ trong truyện ngắn Hemingway

Động từ như là một đặc trưng thi pháp ngôn ngữ trong truyện ngắn Hemingway
Ngô Thị Thu Thủy
I.                   Về phong cách văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng của Hemingway
1.      Hemingway –nhà kiến tạo phong cách vĩ đại
Hemingway nổi tiếng với phong cách tự sự độc đáo. Nguyên lý Tảng băng trôi (Iceberg Theory) là đặc điểm nổi bật trong văn phong của ông. Nó được mô tả bằng sự kiệm lời và súc tích, và có tầm ảnh hưởng quan trọng trong sự phát triển của văn chương thế kỉ XX.
Hemingway  được biết nhiều nhất từ phong cách tự sự ngắn gọn, giản dị. Ông  đã tu dưỡng phong cách của mình ở trường phóng viên báo chí. Việc tôi luyện kỹ năng thuần túy mang tính kỹ thuật của Hemingway rõ ràng đã giúp ông đạt được một kỷ luật tự giác trong nghệ thuật với sức mạnh khác thường. 
Phong cách tự sự của Hemingway được học tập một cách rộng rãi nhất trong suôt thế kỷ 20. Nguyên lý tảng băng trôi nổi tiếng đến mức nó đã trở thành kiểu mẫu học tập cho những ai muốn trở thành nhà văn trong thế kỷ XX. Người ta đua nhau đưa ra những khái quát về phong cách văn xuôi của ông, những bí quyết để viết truyện như Hemingway.
 Không rườm rà, màu mè trang trí và mùi mẫn, văn xuôi của ông cố gắng đạt đến một sự khách quan và trung thực nhất có thể. Bằng cách sử dụng câu và đoạn ngắn ở thể chủ động, ông viết nên những câu văn giản dị mà ở chúng, mọi sự bình luận và các cảm xúc có được từ các biện pháp tu từ đã bị loại bỏ tối đa. Câu được cấu tạo chủ yếu bằng danh từ và động từ, có ít tính từ, phó từ và đặc biệt, trầm tích ngữ nghĩa của chúng dựa một phần vào sự lặp lại và nhịp điệu của hành động nhân vật. Kết quả là ông có được một thứ văn xuôi cô đúc như được bê tông hóa, có khả năng truyền đạt nhiều hơn một tầng thông điệp. Hemingway đã cho chúng ta một bài học: nói ít chính là nói được nhiều.
“Vai trò của Hemingway như một trong những nhà kiến tạo phong cách vĩ đại nhất trong kỷ nguyên này là rất rõ ràng trong nghệ thuật tự sự của cả Mỹ và Châu Âu trong hơn hai mươi lăm năm qua, nổi bật nhất là những cuộc đối thoại sinh động và những cuộc khẩu chiến mà trong đó ông đã tạo ra một chuẩn mực rất dễ bắt chước nhưng đồng thời rất khó đạt được”.(Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển-Anders Österling, Thư ký thường trực Viện hàn lâm Thụy Điển).
2.      Truyện ngắn Hemingway
Truyện ngắn Hemingway về kích thước khác nhau, truyện ngắn truyện dài nhưng tự thân chúng là những thế giới nghệ thuật riêng biệt, sinh động trong hướng quy tụ theo nguyên lý Tảng băng trôi. Do vậy, tuy cụ thể xác thực nhưng văn phong của Hemingway lại khó nắm bắt ngay cả những nét nghĩa đơn nhất. Đối thoại trong truyện ngắn của ông thường rõ về chủ thể, về cấu trúc nhưng lại mơ hồ trong logic hội thoại. Tính nhân quả của chúng thường lỏng lẻo. Hơn nữa, ông lại xóa mờ mục đích của đối thoại nên sức hấp dẫn của chúng thật lớn, buộc độc giả phải cùng sáng tạo.
II.               Động từ trong truyện ngắn Hemingway
1.      Động từ
Động từ là chữ dùng để diễn tả trạng thái (She seems excited, they are happy) hay hành động do chủ từ làm ra (He closed the door) hay bị động (I am caressed by my mother).
Trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày và trong văn nói, động từ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện ý nghĩa giao tiếp.
2.      Động từ trong truyện ngắn Hemingway
Có một sự so sánh đã trở nên rất nổi tiếng giữa hai nhà văn vĩ đại, Hemingway và Faulkner, về sự khác biệt giữa phong cách viết của hai người:
Ông ấy chưa bao giờ sử dụng một từ khiến người đọc phải tra cứu cách sử dụng trong từ điển”. (Nguyên văn "He has never been known to use a word that might send a reader to the dictionary." - William Faulkner nói về Ernest Hemingway).
Và, hiểu nhầm ý của Faulkner, Hemingway đã đáp trả cay cú trên một tờ tạp chí: “Tội nghiệp Faulkner. Ông ấy thực sự nghĩ rằng tình cảm lớn lao được chứa đựng trong những từ ngữ phức tạp ư?”("Poor Faulkner. Does he really think big emotions come from big words?" - Ernest Hemingway nói về William Faulkner).
Đó chỉ là một sự hiểu lầm nhỏ thú vị. Faulkner cũng như độc giả đương thời đều đánh giá cao lối viết và ngôn từ của Hemingway. Với Hemingway, ngôn từ càng giản dị thì khả năng truyền tải giá trị thẩm mĩ càng cao, trong khi đó Faulkner đề cao ngôn từ bác học, có tính triết học và sự phức tạp trong diễn đạt.
Tôi thì cho rằng cái thời dẫn dắt người đọc vào mê lộ ngôn từ và cảm xúc đã qua từ lâu và quả thực Hemingway đã có một phong cách xác đáng trong thời đại mình: một văn phong giản dị, cô đúc, giàu ý nghĩa. Một trong những kĩ thuật mà Hemingway sử dụng để tối đa hóa sự giản dị trong văn phong của mình là quan tâm một cách đặc biệt đến việc sử dụng từ loại trong câu, đặc biệt là động từ. Dù trong bất cứ trường hợp nào, ông cũng khiến cho người đọc phải nhất quán một điều rằng: không thể giản dị hơn, không thể cô đặc hơn, không thể là từ nào khác hơn.
Sự lựa chọn từ ngữ, đặc biệt là lựa chọn động từ, là chìa khóa then chốt để viết nên một văn phong mạnh mẽ dẫn dắt người đọc theo đến cùng câu chuyện.
Trong truyện ngắn của Hemingway, động từ được sử dụng với một phong cách riêng góp phần tạo nên phong cách tác giả. Hemingway đã thật sự tạo ra một dấu ấn riêng trong cách sử dụng động từ. Điều này đã trở thành hệ thống và có tính nhất quán. Việc sử dụng động từ với những đặc trưng riêng đã góp phần tạo nên phong cách truyện ngắn Hemingway như chúng tôi đã đề cập ở trên: giản dị, rõ ràng, cô đúc và đầy tin tưởng.
 Thứ nhất, động từ mà Hemingway thường sử dụng là những động từ mạnh.
Thế nào là động từ mạnh? Là lớp động từ diễn tả hành động, diễn biến, có di chuyển và tác động chứ ko phải diễn tả trạng thái; chúng rõ ràng về mặt ý nghĩa, không gây mơ hồ trong cảm xúc. Chúng ta biết về nhân vật thông qua hành động của họ. Hành động của nhân vật thể hiện trong động tác chứ không phải trong tính chất, trạng thái. Bản thân những tính từ, trạng từ đi kèm thường mang tính chủ quan và áp đặt từ phía nhà văn. Hemingway thì không như vậy: với ông, sự rõ ràng giản dị có được là nhờ sự khách quan, ngắn gọn đến cô đặc của động từ.
Đoạn trích dưới đây từ truyện ngắn ‘Sông lớn hai lòng” của ông cho thấy điều này rất rõ:
“As the shadow of the kingfisher moved up the stream, a big trout shot upstream in a long angle, only his shadow marking the angle, then lost his shadow as he came through the surface of the water, caught the sun, and then, as he went back into the stream under the surface, his shadow seemed to float down the stream with the current, unresisting, to his post under the bridge where he tightened facing up into the current.”
Một đoạn miêu tả đầy những động từ mạnh: moved up, shot, mark, lost, came, caught, went, float, tightened. Hành động của nhân vật được miêu tả theo trình tự trước sau, hành động này kế tiếp hành động kia. Không có sự xáo trộn thời gian, không có phút suy tư ngừng nghỉ của nhân vật (tất nhiên chúng ta đang khảo sát trên bề mặt câu chữ). Họ chỉ làm việc, di chuyển,và nói chuyện. Ngay cả hành động nói của họ cũng “có vấn đề”: ta không luôn luôn biết đích xác điều họ nói đến, càng không thể khẳng định một cách chắc chắn rằng ta biết rõ họ như cách họ thể hiện. Tác giả không cho ta thêm dữ kiện gì ngoài hành động của họ. Không một từ miêu tả trạng thái tâm lý, chỉ có hành động dứt khoát của nhân vật. Những điều ta muốn biết một cách nhanh chóng trên bề mặt ngôn ngữ đều đã bị tác giả cắt gọn, nhấn chìm xuống tầng sâu của tảng băng.
“They went back along the gravel path and passed in the door. The maid stayed outside to close the umbrella. As the American girl passed the office, the padrone bowed from his desk. She had a momentary feeling of being of supreme importance. She went on up the stairs. She opened the door of the room.” (Mèo trong mưa).
Một đoạn văn miêu tả gồm 6 câu trong chưa đầy 4 dòng viết với  8 động từ chỉ sự di chuyển và tác động. Các câu hoàn toàn sáng tỏ về ý nghĩa hành động do động từ đi ngay sau chủ thể thể hiện một ý nghĩa khẳng định rõ rệt: không phủ định mơ hồ, không nghi vấn. điều này chúng tôi sẽ đề cập một cách chi tiết ở luận điểm sau.
Một ví dụ khác đoạn trích trong truyện ngắn “ Một nơi sạch sẽ sáng sủa” có thể cho thấy rõ hơn điều chúng tôi khẳng định: nhân vật miêu tả hành động của nhân vật khác cũng thuần túy là tường thuật hành động, không thêm dữ kiện nào khác. Và đó đều là những hành động thể hiện hành vi tác động, di chuyển:
"He had better get off the street now. The guard will get him. They went by five minutes ago."
The old man sitting in the shadow rapped on his saucer with his glass. The younger waiter went over to him.
Và một đoạn trích trong “ Những rặng đồi như đàn voi trắng” với mật độ dày đặc của các động từ chỉ hành động:
He picked up the two heavy bags and carried them around the station to the other tracks. He looked up the tracks but could not see the train. Coming back, he walked through the bar-room, where people waiting for the train were drinking. He drank an Anis at the bar and looked at the people. They were all waiting reasonably for the train. He went out through the bead curtain. She was sitting at the table and smiled at him.
Một đoạn văn trong “Sự kết thúc của một điều gì” chỉ thuần túy miêu tả hành động của nhân vật. Họ là người yêu của nhau, nhưng, một cách lặng lẽ, ai làm việc người nấy:
They pulled the boat up the beach and Nick lifted out a pail of live perch. The perch swam in the water in the pail. Nick caught three of them with his hands and cut their heads off and skinned them while Marjorie chased with her hands in the bucket, finally caught a perch, cut its head off and skinned it. Nick looked at her fish.
Thứ hai, hệ quả của việc sử dụng nhiều động từ mạnh là vì mạnh nên không cần trạng từ bổ trợ.
Rất ít khi ta có thể tìm thấy trong văn phong truyện ngắn của Hemingway một kiểu miêu tả hành động như “anh nói một cách lịch sự”, “nàng yêu anh say đắm”, “bọn chúng cười một cách hả hê”..tức là trạng từ đi sau động từ để làm rõ nghĩa thêm cho nó, miêu tả trạng thái, tính chất của hành động..để bổ nghĩa cho động từ đó.
Có thể nói trạng từ trong tiếng anh giống như cái nạng- vật chống đỡ cho động từ. Vai trò của nó là  đưa thêm thông tin cho hoặc về hành động, diễn tả hành động đó xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào..ví dụ :
-         Come on, you’re walking terribly slowly.
-         You’re completely out of your mind.
Như vậy, tác dụng của nó là tác động vào tính chất, trạng thái của hành động như là một người phụ tá của động từ, thậm chí đôi khi còn làm ảnh hưởng mạnh mẽ nghĩa của câu, ví dụ:
-         Actually, I don’t want to see you again.
Tuy đóng vai trò bổ nghĩa cho động từ nhưng trong đa số trường hợp có thể thấy chúng thực sự làm yếu đi câu văn. Nó cho thấy câu văn thật sự nhạt nhẽo, động từ của câu thiếu quyết đoán, thiếu khả năng diễn đạt khiến do nó cần phải có một sự chống đỡ. Cần tới một cái nạng trạng từ để chống đỡ, vậy thì rõ ràng là động từ của câu quá yếu!
Trạng từ, tính từ rất hữu dụng khi mô tả nhằm tạo hình ảnh, màu sắc, tính chất nhưng lạm dụng chúng là kiểu cách của nhà văn tập sự. Vả chăng, trạng từ, và nhất là tính từ thường có tính chủ quan, cường điệu phẩm chất nào đó hoặc đề cao, khắc họa một cách đặc biệt nét tính cách. Nếu sử dụng quá mức thì có thể rất nguy hiểm vì nhiều tính từ gợi lên một sự phán xét chủ quan mơ hồ. Và cụ thể, khách quan thì luôn tốt hơn là mơ hồ chủ quan.
 Và khi đã đặt ra những ý kiến chủ quan, chắc chắn nhà văn, sớm muộn gì cũng phải chứng minh điều mình đã nói- một cách làm rầy rà cho công việc viết truyện ngắn và càng không phải là một văn phong của người đã đề xướng ra nguyên lí tảng băng trôi.
Theo dõi một đoạn hội thoại dưới đây, ta sẽ nhận thấy nhân vật của Hemingway, dù trong tâm trạng bất yên, cũng không được nhà văn ưu ái dành cho một tình cảm ủy mị xót thương bằng kiểu cách thêm gia vị “trạng từ’’:
 ‘And I want to eat at a table with my own silver and I want candles. And I want it to be spring and I want to brush my hair out in front of a mirror and I want a kitty and I want some new clothes.’
‘Oh, shut up and get something to read,’ George said. He was reading again.
 ‘Anyway, I want a cat,’ she said, ‘I want a cat. I want a cat now. If I can’t have long hair or any fun, I can have a cat.’
Trên đây là một đoạn hội thoại của một đôi vợ chồng. Có thể nhận thấy ở họ một sự bất đồng: ở người vợ là một sự quẫn bách, ức chế, ở người chồng là sự thờ ơ. Nhưng ngay cả khi cô lặp lại liên tục khao khát của mình, (ta hoàn toàn có thể tin rằng cô ta đã hét lên, hay ít nhất là nói lên rất to nguyện vọng của mình, với một sự lặp lại rất bức bối) nhà văn cũng không dùng một tính từ, trạng từ nào cho thấy tâm trạng của cô. Và khi người chồng bảo cô “im đi”, anh ta cũng không được miêu tả là “hét lên một cách tức tối” hay “nhăn nhó, chán nản”…Sự cô đọng rút vào tất cả các động từ đi ngay sau chủ ngữ. Tầng sâu ngữ nghĩa nằm dưới phàn chìm không được nói đến.
Thứ ba, động từ trong truyện ngắn của Hemingway thường rất tích cực trong ngữ nghĩa. Chúng thường nằm trong câu chủ động.
Câu chủ động là câu có chủ ngữ và vị ngữ mà trong đó chủ ngữ là người hay vật hay một hiện tượng làm chủ hành động, trực tiếp tác động lên đối tượng. Loại câu này sử dụng cấu trúc chủ ngữ-động từ-bổ ngữ. Do vậy, động từ trong câu phải là động từ chủ động.
Ví dụ:
-         I’ll do it.
-          ‘‘No, I’ll get it
-         ‘‘Did you get the cat?’. (Cat in the rain)
Tất cả chúng ta đều nhất trí rằng câu trong sáng và rõ ràng giản dị nhất trong tiếng Anh là câu đi từ chủ ngữ đến động từ rồi đến bổ ngữ. Câu “I’ll get the kitty” chắc chắn là rõ ràng hơn “the cat will be got by me.”(Mèo trong mưa).
Và “The woman brought two glasses of beer and two felt pads” thì sáng sủa hơn “two glasses and two felt pads were brought and put on the table by the woman”.(Hills like elephants).
Mặt khác, để nhấn mạnh hơn tính chủ động, câu văn của Hemingway thường là câu khẳng định, ít câu phủ định.Tìm hiểu một số ví dụ trong truyện ngắn của Hemingway ta sẽ thấy rõ hơn điều này.
I’ll go with you and I’ll stay with you all the time. (Không phải là I wont let you alone and I won’t leave you)
 We’ll be fine afterwards.(Không phải là we won’t be bad)
 And you think then we’ll be all right and be happy.( Không phải là we will never be bad and unhappy)
 I think it’s the best thing to do. ( Không phải là I don’t think It’s bad)
 Thứ tư, vì hạn chế sử dụng câu bị động nên trong truyện ngắn Hemingway, ta ít thấy động từ “to be”.
Câu bị động luôn luôn có chứa một hình thức của trợ động từ be (được, bị - trong tiếng Anh). Câu bị động thường được sử dụng khi người nói, người viết muốn nhấn mạnh một kết quả, (điều này chúng tôi dám chắc là Hemingway không thích).Ví dụ, ta có thể miêu tả nội dung bị động : “Truyện ngắn Những kẻ giết người của Hemingway bị bao trùm bởi ám ảnh về một vụ bạo lực đang treo lơ lửng” theo  chủ động cách :
The story "The Killers”  of Hemingway dominated the feeling of impending violence”, ngắn gọn và rõ ràng hơn so với câu: “Hemingway's "The Killers" is a story that is dominated by the feeling of impending violence”.
Đó là lý do tại sao động  từ to be trong truyện ngắn của Hemingway bị hạn chế tới tối đa.
Trong đa phần truyện ngắn của Hemingway, tỉ lệ động từ to be và động từ thường (verb) chênh lệch khá đáng kể, có thể thấy như bảng thống kê dưới đây:
Tên truyện
Động từ to be
Động từ thường ( verb)
Indian camp
42
222
Cat in the rain
35
158
Big two heart river
235
1034
Kilimanjaro
135
460
The end of something
38
224

 Rất ít kiểu miêu tả “anh ta thế này thế nọ” ,“ họ cảm thấy thế này thế kia”.. chưa kể động từ “to be” là động từ thụ động nên loại động từ ở thời phân từ  trong truyện của Hemingway rất ít. Mẫu câu ưa thích của ông là chủ ngữ- động từ/ cụm động từ -danh từ- tân ngữ chứ không phải là câu bị động với công thức câu dài dòng (is, are, was, were, be, being, been), đầy chủ quan, thường gây mơ hồ về nghĩa và đặc biệt, nó ẩn chủ ngữ hoặc làm mờ đi vai trò chủ động của chủ thể hành động.
Chính vì vậy mà ta thấy đầy ắp trong truyện ngắn của Hemingway, cả trong đoạn miêu tả lẫn hội thoại, đều là những câu chủ động và động từ ở thể chủ động là chính yếu. Hãy thử khảo sát trong một số đoạn văn để thấy tần số xuất hiện của loại động từ này.
Và với các câu thoại "He has plenty of money" ( Ông ta có nhiều tiền), rõ ràng chúng ta thấy giản dị và khách quan hơn là “He’s very rich”(Ông ta rất giàu) ( Một nơi sạch sẽ sáng sủa). Câu thứ nhất sử dụng động từ thường has  để cung cấp thông tin trong khi câu thứ hai sử dụng động từ to be is là một bình luận.
Thứ năm, các động từ dẫn thoại(-tag dialogue): said, answered, suggested…lặp lại với tần số cao.
Dễ thấy nhất là ở hội thoại. Hemingway dường như thích thú với việc để người đọc tò mò đoán biết nhân vật đang nghĩ gì, cảm thấy gì khi họ “nói”, “trả lời”, “hỏi”…Ông không dài dòng làm phức tạp cho câu chuyện của nhân vật. Đơn giản, họ nói chuyện, và ông dùng những động từ giản dị và thông dụng nhất để dẫn lời thoại của họ. Với Hemingway, nhân vật chỉ hỏi và trả lời, hoặc nói, nhiều lắm là đề nghị. Họ không hét lên, không thì thầm, không khóc lóc, van vỉ, không cãi lộn. Hành vi của họ đơn giản là phát ngôn, hoặc là khẳng định hoặc phủ định hoặc nghi vấn. Tác giả không đưa thêm nhiều thông tin về chủ thể phát ngôn. Tất cả những điều ấy nằm bên dưới tảng băng. Trong một số truyện ngắn tiêu biểu, chúng ta dễ dàng nhận thấy phong cách quen thuộc này:
"There's our old ruin, Nick," Marjorie said. "There it is," he said.
"Can you remember when it was a mill?" Marjorie asked.
"I can just remember," Nick said.
"It seems more like a castle," Marjorie said.
Nick said nothing. They rowed on out of sight of the mill, following the shore line. Then Nick cut across the bay.
"They aren't striking," he said.
"No," Marjorie said.
"They're feeding," Marjorie said.
"But they won't strike," Nick said.
"What's the matter, Nick?" Marjorie asked.
"I don't know," Nick said, getting wood for a fire.
(The end of something)
Chúng chỉ là những hành động ngôn ngữ, tức là hành động được thực hiện bởi ngôn ngữ và được thực thi đồng thời với lúc nói. Sự lặp lại này ban đầu có thể khiến ta cảm thấy nhàm chán và mệt mỏi, không biết nhà văn tường thuật cộc lốc vậy có nghĩa gì. Tác giả không tỏ bày cảm xúc, không gây xúc động cho người đọc bằng sự mủi lòng của chính người trần thuật, mà thông qua sự cảm nhận của bản thân người đọc về những  hành động, lời nói của nhân vật, người đọc phải tự chiêm nghiệm ra ý nghĩa của đối thoại. Hemingway chỉ cho ta dữ kiện với một loạt các hành động, với cảm nhận của chúng ta về một cảm xúc đặc biệt phù hợp với những hành động đó, tâm hồn chúng ta được khơi dậy mỹ cảm.
          Cuối cùng, Hemingway ưa thích  kiểu kết hợp động từ thường và động từ có đuôi –ing và đây là một dấu hiệu nhận biết văn phong Hemingway:
Nick sat smoking, looking out over the country.(1)
Nick  said, speaking out loud for the first time(2)
He came out, crawling under the cheesecloth.(3)
(The end of something)
The two Indians stood waiting.(4)
An old woman stood in the doorway holding a lamp.(5)
The doctor said, standing up(6)
A  bass jumped, making a circle in the water.(7)
( indian camp)
He asked, putting the book down.(8)
(Cat in the rain )
Đó không phải chỉ là sự kết hợp động – danh từ (câu 4) mà là cách nói ngắn gọn về những hành động liên tiếp nhau (3,5,6,7,8) của cùng một chủ thể, thường được gọi là kiểu động từ thời hiện tại phân từ (present participle). Ta vốn biết Hemingway yêu thích sự súc tích ngắn gọn. Ở truyện ngắn của ông, cấu trúc động từ  thì present participle được tận dụng mạnh mẽ và có hiệu quả.
Tất cả những đặc điểm về cách sử dụng từ loại động từ trong truyện ngắn Hemingway đã góp phần làm nên một văn phong “giản dị trung thực về con người”, súc tích, cô đọng, gợi nhiều hơn tả, tuy ngôn ngữ dung dị nhưng ngữ nghĩa thì biến hóa khôn lường.  Đó là cách mà Hemingway kiến tạo vực sâu ẩn dụ cho tảng băng của mình,  đem lại cho tác phẩm một không khí giàu tính biểu tượng, làm người đọc bao thế hệ day dứt mãi.
Và chúng tôi xin kết thúc tiểu luận này bằng cảm hứng từ một bài thơ của Joseph Brodsky :

Những động từ

Xung quanh tôi là những động từ lặng câm,
như những mái đầu xa lạ,
những động từ,
những động từ đói khát, những động từ trụi trần,
những động từ chính, những động từ câm.
Những động từ không đi kèm với danh từ. Chỉ đơn giản là nó.
Những động từ,
đang sống ở dưới hầm,
sinh ra và hít thở trong hầm sâu,
dưới những tầng gác đè ngập đầu
nhét đầy chủ nghĩa lạc quan.
Mỗi buổi sáng chúng lại đi làm,
trộn xi măng và vác đá,
nhưng khi chúng xây thành phố, không phải là những công trình
mà là tượng đài cho nỗi cô đơn của chính mình.
Khi ra đi, như tới kí ức xa lạ,
bước nhẹ nhàng từ từ này tới từ khác,
và bằng cả ba thời ngữ pháp
những động từ đi tới đồi Golgotha.
Bầu trời trên chúng
như cánh chim trên nghĩa trang,
và trước cánh cửa đóng kín
ai đó đứng gõ hay đóng đinh
vào thời quá khứ,
thời hiện tại,
thời tương lai.
Sẽ không ai đến, không ai gỡ bỏ.
Tiếng búa gõ
thành nhịp điệu vĩnh hằng.
Mặt đất hình hyperbol nằm dưới chúng
như bầu trời ẩn dụ trôi nổi giữa không trung.
  Joseph Brodsky -1960
Xin chân thành cảm ơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. The collected stories by Ernest Hemingway, Edited and introduced by James Fenton, Everymans Library, London, 1995.
2. Nguyễn Hữu Hiếu - Tiếp cận tác phẩm Hemingway từ tính đồng dạng của nhân vật- Hemingway - Những chân trời nghệ thuật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000
3. Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro » và một nét trong nghệ thuật dựng truyện của Ernest Hemingway, Tập san Khoa học xã hội và nhân văn, Tp. Hồ Chí Minh, 9/1999.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét