Ngô thị Thu Thủy
Suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc ta đã tiếp thu những tác động không nhỏ từ nền văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là về mặt học thuật. Tuy nhiên, dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, người Việt Nam vẫn luôn thể hiện bản lĩnh sáng tạo và bản sắc văn hoá của mình, chỉ giữ lại những gì đúng đắn, phù hợp và hữu ích.
Do những đặc điểm lịch sử và văn hoá quy định, trong lĩnh vực văn học, dân tộc ta đã tiếp thu với một thái độ tích cực đối với thi pháp - mỹ học cổ điển Trung Quốc. Nhà nho Việt Nam khi miêu tả hiện thực một triều đại phong kiến đã không tránh khỏi quan niệm về tính trau chuốt, trang trọng của lời văn câu thơ. Do vậy, những thi liệu cổ điển, ngôn từ bác học, những điển tích điển cố và những hình tượng nghệ thuật có tính chất ước lệ tượng trưng đều đã đi vào văn học trung đại Việt Nam một cách tự nhiên, uyển chuyển. Bên cạnh nguồn từ vựng Nôm bình dị, ngọt ngào, gần gũi tâm hồn người Việt thì ngôn ngữ, thi liệu văn học bác học, cổ điển từ văn học bác học, cổ điển từ văn học Hán có vai trò không nhỏ góp phần tạo nên hiệu quả, sức mạnh cho lời văn lời thơ và biểu đạt những tư tưởng có tầm vóc, chiều kích lớn lao.
Tác giả của "Bạch Vân quốc ngữ thi" được tôn vinh là danh nhân văn hoá, một phần vì ông đã tiếp nối truyền thống làm giàu kho tàng thơ ca dân tộc bằng chính tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc mình, truyền thống đã được ý thức từ "Hồng Đức quôc âm thi tập" và "Quốc âm thi tập". Nhưng nói như thế không có nghĩa là Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ nhận vai trò và tác dụng của chữ Hán. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" thể hiện rõ hơn cả qua một hệ thống ngôn ngữ, thi liệu, hình ảnh ít nhiều uyên bác tuy đã được chắt lọc, gạn bớt đi những thành phần huyền bí, cao siêu.
I. Ngôn ngữ thơ "Bạch Vân quốc ngữ thi" .
Dấu ấn Lão Trang để lại trong hệ thống ngôn ngữ biểu đạt của "Bạch Vân quốc ngữ thi" một cách sắc nét. Ở phương diện này, có thể nói Bạch Vân cư sĩ đã thực sự thành công trong việc lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt tư tưởng. Nổi bật ở những bài thơ vịnh cảnh, ngôn chí, hệ thống ngữ liệu trong thơ Bạch Vân đều nhất quán hướng đến thể hiện một quan điểm, lẽ sống tích cực, đó là lánh xa danh lợi để ung dung tự tại sống tiêu dao, nhàn tản cùng cỏ cây, non nước. Với hệ thống từ ngữ này có thể tạm thời phân biệt: hệ thống từ ngữ được sử dụng theo hướng "Lão Trang hoá" và hệ thống từ ngữ miêu tả thiên nhiên.
1. Hệ thống từ ngữ được sử dụng theo hướng "Lão Trang hoá" .
Đối với các học thuyết, tư tưởng lớn khởi nguồn từ Trung Quốc, người Việt Nam thường ít có khuynh hướng nghiên cứu với tư cách là học giả uyên bác. Tiếp cận các thánh điển của nhiều trường phái triết học, tôn giáo khác nhau nhưng các nho sĩ Việt Nam không đem những thuật ngữ của kinh sách vào thơ văn của mình để biểu đạt tư tưởng. Trái lại, nhà nho Việt Nam luôn tìm cách diễn đạt uyển chuyển, mềm mại và gần gũi hơn với tâm hồn dân tộc. Đặc biệt với một trường phái triết học thâm viễn, huyền bí như Đạo gia, thi nhân xưa đã khéo léo lựa chọn ngôn ngữ biểu đạt gần gũi, cụ thể nhất. Trên tinh thần đó, tác giả của "Bạch Vân quốc ngữ thi" đã đưa vào thơ Nôm một hệ thống từ ngữ được "Lão Trang hoá", tức là hệ thống từ ngữ cùng liên kết nhằm hướng tới thể hiện tư tưởng Lão Trang trong thơ ông.
Khởi nguyên từ vũ trụ luận, những thuật ngữ của Đạo gia ít nhiều có tính huyền bí và tối nghĩa, đó là lý do tại sao có rất nhiều nguồn chú giải khác nhau về thánh điển của Lão Trang. Những thuật ngữ ấy không phải là không có phần nặng nề lý thuyết đối với người làm thơ đời sau. Nhưng trong "Bạch Vân quốc ngữ thi", tác giả hầu như không hhề nhắc đến một thuật ngữ nào của Đạo gia. Tư tưởng Lão Trang đi vào thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải dưới dạng những hình thức triết thuyết khô khan thuộc phạm trù triết học, chính trị, xã hội hay những phát ngôn khó hiểu mà thông qua những phương thức nghệ thuật, thẩm mỹ riêng không tách rời lý tưởng thẩm mỹ đặc trưng cho thi pháp văn học trung đại. Do vậy, biểu đạt một nhân sinh quan, một tinh thần sống đậm màu sắc Lão Trang mà không một lần nhắc đến"vô vi" "hằng thường", "vô danh", "vô kỷ"…. là cả một quá trình tiếp biến văn hoá tích cực của tâm thức dân tộc trong thẳm sâu tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm .
Tuy nhiên trong tập thơ lại xuất hiện một số từ ngữ được sử dụng theo xu hướng "Lão Trang hoá". Những từ ngữ ấy vốn không phải là những thuật ngữ riêng của Đạo gia. Chúng được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng có hệ thống nhằm hướng đến thể hiện nhân cách sống, phong cách sống của Lão Trang. Tiêu biểu trong hệ thống từ ngữ này phải kể đến những từ : "tự tại", "nhàn", "tiêu sái", "vô sự", "ẩn dật", "tiên"… và một số từ có ý nghĩa đối lập : "công danh", "cửa mận", "phú quý"…
Những từ ngữ này xuất hiện với tần số cao, mật độ dày đặc trong "Bạch Vân quốc ngữ thi", rải khắp các bài thơ vịnh cảnh, ngôn chí của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có khi trong cùng một bài thơ, các từ này cùng xuất hiện, tạo thành một liên kết có tính hệ thống và nhất quán:
"Buồn làm biếng thấy cái đao binh
An phận thời lành ở một mình
Nghĩa cả luống quên tôi chưa cũ
Thề xưa nỡ phụ nước non xanh
Rồi nhàn thời nhẫn tiên vô sự
Ngâm ngợi cho nên cảnh hữu tình
Hai chữ mãn doanh này khá gẫm
Mấy người chọn được chữ thân danh"
(Bài 15)
Suốt cuộc đời hơn bốn mươi năm ẩn dật của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm có được hơn nghìn bài thơ, không bài nào không tỏ cái chí hiếu trung, ưu thời mẫn thế hoặc cái tâm hướng tới cuộc sống nhàn tản thanh bạch chốn quê. Ta không lấy làm lạ khi thấy trải khắp "Bạch Vân quốc ngữ thi", những từ ngữ "Lão Trang hoá" nói trên trở đi trở lại như một tín hiệu thẩm mỹ. Và ở mỗi bài thơ, những tín hiệu thẩm mỹ nói trên đều góp phần nói lên nhân cách sống cao đẹp của nhà thơ. Chúng chứng tỏ rằng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng phủ nhận danh lợi không phải là những suy nghĩ thỏang qua; phong cách sống ung dung tự tại gần gũi thiên nhiên không phải là lối sống nhất thời. Chúng là những quan điểm sống đã được quán triệt, có cơ sở nhân sinh bền chặt, có tính chất thường trực trong tâm thức Bạch Vân cư sĩ. Có thể khẳng định rằng, sự trở đi trở lại của lớp từ này tự chúng đã nói lên tính bền chặt, vĩnh viễn của quan điểm sống, phong cách sống Nguyễn Bỉnh Khiêm như là một phạm trù thẩm mỹ. Đó là cái đẹp cuả nhân cách sống trong thơ ông, là cái đẹp của đạo đức, là "phạm trù đạo đức được mỹ hoá"[8;317].
Qua từng bài thơ, có thể thấy, sự phối hợp, liên kết giữa các từ ngữ "Lão Trang hoá" này đã góp phần biểu hiện một khuynh hướng tư tưởng, một cốt cách cao quý của bậc ẩn sĩ Tuyết Giang phu tử:
"Già đã khỏi áng công danh
Tự tại nào âu luỵ đến mình
Nhàn được thú vui hay nấn ná
Nghĩ xem sự thế biếng đua tranh"
(Baì 17)
"Ngày ngày tiêu sái nhàn vô sự
Tuy chửa là tiên ấy ắt tiên"
(Bài 22)
Đặc biệt, lớp từ này xuất hiện trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" dưới hình thức các cặp phạm trù đối lập, càng làm nổi bật quan niệm sống tích cực của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là các cặp phạm trù : "Danh lợi - Thanh nhàn", "giàu - khó", "khôn ngoan- dại dột", "đua tranh- an phận", "áng công danh- nơi ẩn dật", "xuất- xử", "cửa mận- am hoa", "đường thông nhà trúc- cửa mận tường đào"….
- "Thuở áng công danh nhiều phải luỵ
Trong nơi ẩn dật mấy nên mầu"
(Bài 9)
"Để rẻ công danh đổi lấy nhàn"
(Bài 13)
"Cửa mận người yêu nhiều khách trọng
Am hoa ai ở đến ông nhàn"
(Bài 25)
"Nhà thông đường trúc lòng hằng mến
Cửa mận tường đào biếng ngại chen"
(Bài 51)
Tính đối lập giữa các cặp phạm trù này bản thân chúng đã tự nói lên một luận đề đạo đức trong thơ Bạch Vân: đó là sự đề cao lối sống thanh bần, trong sạch, phê phán tư tưởng chạy theo danh lợi phú quý giữa thời đại đầy rẫy sự đua tranh giành giật. Sự đối lập đó cũng thể hiện mối xung đột gay gắt giữa các luận đề đạo đức, giữa tư tưởng sống nhàn với thói đời nhiều tục luỵ. Phong cách sống Lão Trang đã trở thành một phạm trù đạo đức, một nét nhân cách đẹp của Bạch Vân cư sĩ.
Ngôn ngữ “Lão Trang hóa” như một biểu hiện nghệ thuật trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" đã góp phần phản ánh tư duy mỹ hoá các phạm trù đạo đức trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông quan niệm cách sống đẹp trong thời đại đảo điên ấy không gì khác chính là lối sống nhàn, vô sự, thái độ tự tại ung dung. Đó phải chăng là cách duy nhất khả dĩ vãn hồi được trật tự phong kiến chính thống đang dần đi vào mục ruỗng?
Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không có những phát ngôn đầy tính lý thuyết cho tư tưởng Lão Trang nhưng thừa sắc sảo, sâu lắng để bày tỏ một tư tưởng triết học, một đạo lý sống cao quý ở đời. Vừa đủ rung cảm, tinh tế, lại rất uyển chuyển, gần gũi, ngôn từ trong thơ ông đã bày tỏ những tâm tư, ý chí của người ẩn sĩ biết rời xa vòng lợi danh để vui thú với cuộc sống an nhàn tự tại. Từ lớp ngôn từ "Lão Trang hoá" này đã góp phần tạo nên chủ đề, đề tài thơ xuất thế, thơ ẩn dật đạm vị đời, nhạt màu thế sự trong "Bạch Vân quốc ngữ thi". Có thể nói, màu sắc "ẩn dật"mà "Bạch Vân quốc ngữ thi" có được một phần rất lớn là nhờ hệ thống ngôn từ được sử dụng theo hướng "Lão Trang hoá" này.
2. Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên.
Là một thi nhân, ẩn sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm làm thơ rất nhiều về thiên nhiên, qua đó bày tỏ một cuộc sống gần gũi, tôn trọng và hoà hợp với tự nhiên. Tình yêu đối với thiên nhiên đã giúp Bạch Vân vẽ nên những bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc: có phong cảnh tươi tắn sống động, có phong cảnh mỹ lệ, tao nhã vẻ Đường thi, lại có những bức tranh với những gam màu nhạt, đường nét thanh đạm và rất giản dị. Nhưng dẫu có những màu vẻ khác nhau, chúng đều tập trung thể hiện một mối tình giao hoà nồng thắm giữa thi nhân và tạo vật quanh mình.
Có thể dễ dàng nhận thấy trong "Bạch Vân quốc ngữ thi", bên cạnh một bộ phận thơ giáo lý có phần nặng nề khô khan, mảng thơ tươi tắn về thiên nhiên đã tạo ra một bầu không khí u nhã, một không gian thanh thoát, tĩnh lặng đến vô vi. Có được điều đó là nhờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng một cách linh hoạt tinh tế vốn ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên. Trong số vốn từ ấy có thể tạm thời phân loại: những thi liệu, hình ảnh thơ có tính chất ước lệ tượng trưng và ngôn ngữ miêu tả cảnh thôn quê mộc mạc giản dị.
2. 1. Những thi liệu, hình ảnh thơ cổ điển, ước lệ tượng trưng.
Là một nhà nho chính thống được đào tạo theo nền khoa cử Hán học, Nguyễn Bỉnh Khiêm không khỏi chịu ảnh hưởng của những quy ước văn học trung đại. Ông đã tiếp thu một cách tự nhiên những hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ và mẫu mực của thơ văn cổ điển. Những khuôn vàng thước ngọc của thi pháp, mỹ học cổ điển phương Đông đã đem lại cho thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều vẻ thiên nhiên trang nhã cổ kính :
"Thu êm cửa trúc hồng vân phủ
Xuân tĩnh đường hoa tử cẩm phong"
(Bài 60)
"Thu nguyệt sáng soi thông tư phủ
Xuân hoa đua nở lửa phong quang"
(Bài 97)
Những hình ảnh "trúc mai", "phong nguyệt", "yên hà", "hồng vân", "tử cẩm". . từng góp mặt trong Đường thi xưa nay lại xuất hiện trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên sự tao nhã của thi liệu. "Phong, hoa, tuyết, nguyệt" trong thơ Bạch Vân do đó hiện lên cũng đầy vẻ trang nhã.
Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm có nét gần gũi thơ Nôm Nguyễn Trãi về mặt phong cách. Nhưng trong khi miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không lựa chọn những hình thức biểu đạt kỳ vĩ để nói lên vẻ hùng tráng của thiên nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm có xu hướng thiên về những hình ảnh gần gũi quen thuộc. Nhưng ngay trong cả vẻ thân thuộc của thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn có thể phát hiện ra những nét đẹp riêng lộng lẫy, thanh nhã không kém gì thơ ca cổ điển:
-“Thi nên ngồi đòi vầng đan quế
Rượu chác hoa lầm ngõ hạnh hoa
Lục ỷ tiếng thanh đêm tựa ngọc
Lan châu chèo vỡ nước bằng là”
(Bài 129 )
-"Chim kêu hoa động ngày xuân muộn
Nguỵêt bạc đêm thanh hứng khách dài"
(Bài21 )
Góp phần tạo nên những vẻ gấm vóc ấy của bức tranh thiên nhiên, phải kể đến khả năng biểu đạt tinh tế của những hình ảnh, thi liệu cổ điển. Đi vào thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, những "vân, phong, hoa, nguyệt. . " đã bộc lộ tất cả vẻ hữu tình sống động của nó. Phảng phất trong tập thơ là những bức tranh thuỷ mặc đường nét thanh thoát, hài hoà mà tinh tế:
-"Phất phơ gió lay phiến trúc
Thánh thót mưa lọt cửa lan"
(Bài 50)
Ngôn ngữ thơ ở đây không những đượm vẻ cổ kính tao nhã của Đường thi mà còn góp phần thể hiện nhân cách thi nhân, biểu trưng cho phẩm chất nhà nho ẩn dật. Hình ảnh “trăng, mai, trúc”. . . xuất hiện và trở đi trở lại nhiều lần trong tập thơ như là biểu tượng cho phẩm chất cao thượng, khí tiết thanh quý của người quân tử, bậc cao nhân Tuyết Giang phu tử.
Sử dụng ngôn từ thi liệu bác học là một phương thức xây dựng hình tượng phổ biến trong thơ văn trung đại. Cái hay cái tài của Bạch Vân là ở chỗ đã lựa chọn sử dụng chúng ở mức độ vừa phải, chắt lọc để vừa bày tỏ mối giao hoà, tương hợp giữa tình người và thiên nhiên như là một lẽ sống cao đẹp, vừa tỏ được cái phẩm chất thanh cao, tịnh khiết của mình. Bởi trong một bầu không khí thiên nhiên tĩnh lặng, trong ngần đến vậy, chỉ có một nhân cách cao đẹp, đáng quý mới có thể thưởng ngoạn, tận hưởng được hết những lạc thú tinh thần mà thiên nhiên mang lại.
2. 2. Ngôn ngữ miêu tả cảnh trí thôn quê bình dị mộc mạc.
Trong "Đạo đức kinh", Lão Tử thường xưng tán những thứ đá quý không đục đẽo. Tư tưởng của ông là không nên tô điểm thiên nhiên bởi vì nghệ thuật hoàn mỹ nhất thì không để lộ một chút gắng sức nào của nghệ sĩ. Các nhà lý luận mỹ học cổ điển Trung Quốc cũng thường quan niệm nghệ thuật phải tự nhiên như nước chảy, mây trôi, không có vết đục đẽo. Sự dụng công đẽo gọt nhào nặn là can thiệp tự nhiên, phá hỏng sự hồn thuần của tạo vật. Có lẽ Nguyễn Bỉnh Khiêm thấm nhuần lý thuyết về thuộc tính "phác" của Đạo do vậy mà phần nhiều thiên nhiên trong thơ ông nhẹ nhàng thanh đạm. Tác giả dường như không bao giờ có dụng ý trau chuốt ngôn từ để tô điểm thêm vẻ mỹ lệ cho thiên nhiên. Vì vậy ở mảng thơ này, ngôn ngữ miêu tả được Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn sử dụng đi vào thơ rất tự nhiên, mộc mạc và gần gũi.
Ta không lấy làm lạ khi bắt gặp vô vàn những hình ảnh thơ giản dị mộc mạc miêu tả cảnh trí thôn quê trong "Bạch Vân quốc ngữ thi". Gần trọn cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó với mảnh đất quê hương, tháng ngày tiêu dao cùng sông nước, tự tại chốn điền viên. Những cảnh vật của thôn quê đã ăn sâu vào tâm thức thi nhân và đi vào trong những bức tranh quê này, góp phần nói lên nét đẹp trong nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm : đã là quê hương thì cảnh trí nơi đâu chẳng đẹp, chẳng là "chốn xuân phong" :
"Song nhật hãy còn hai rặng quýt
Thất gia chẳng hết một căn lều”
"Gió cuốn rèm thay chổi quét
Trăng kề cửa kẻo đèn treo"
(Bài 73 )
"Vô tâm nước có gương soi bạc
Đắc thú kho đầy gió mái thanh"
(Bài 91)
Ngôn từ miêu tả được tác giả sử dụng rất mộc mạc, gần gũi, mang phong vị của đời sống hàng ngày. Vì lẽ đó mà cảnh trí thôn quê trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên rất tươi tắn, cụ thể. Ngay cả bóng trúc, ánh trăng xuất hiện trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng rất đỗi gần gũi, giản dị:
"Hoa nở luống hay tin gió
Đầm thanh còn thấy triều trăng"
(Bài 18)
"Bàn cờ cuộc rượu vầy hoa trúc
Bó củi cần câu chốn nước non"
(Bài 32)
Gắn bó cuộc đời mình nơi thôn dã, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã miêu tả cảnh sống thanh bần ở làng quê bằng những ngôn từ mang đậm phong vị của đời sống sinh hoạt:
-"Thèm nỡ phụ canh cua rốc
Lạnh đà quen nệm ổ rơm"
(Bài 34)
-"Cá tôm hôm chác bên kia bến
Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo"
(Bài 38)
Nhìn chung, về phương diện ngôn ngữ thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những đóng góp đáng kể cho nguồn thi liệu thuần Việt. Việc đem vào thơ những "rèm, chổi, kho, canh cua, ổ rơm, tôm cá, củi đuốc. . " và bình dị hoá những hình ảnh thơ vốn biểu trưng cho tính trang nhã trong thơ cổ điển như "trăng, trúc" đã phá vỡ những quy phạm mẫu mực của văn học nghệ thuật phong kiến, tạo nên những môtíp nghệ thuật mới hoàn toàn thuần Việt, đậm đà tính dân tộc. Điều đó thể hiện nhu cầu được biểu hiện chân thực của hình tượng nghệ thuật và cái nhìn tự nhiên chân thực của thi nhân khi đứng trước thiên nhiên .
Có thể nói, cái đẹp giản dị trong ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một quan điểm nghệ thuật. Đó là tinh thần hướng tới cái đẹp tự nhiên, tôn trọng tính “phác” của sự vật, là lòng yêu mến đối với nghệ thuật không đục đẽo mà Lão Tử từng ca ngợi.
Thiên nhiên trong thơ "Bạch Vân quốc ngữ thi" dẫu cổ kính đường thi hay thanh đạm mộc mạc vẻ quê mùa, đều là chốn tĩnh lặng, thanh u, là nơi di dưỡng tinh thần của "ông nhàn". Vẻ thanh thoát u nhã ấy của thiên nhiên có được là nhờ Bạch Vân đã thổi vào hồn thiên nhiên ấy một ý vị đầy màu sắc"Đạo". "Đạo vị" ấy chính là suối nguồn thi ca của Bạch Vân thi sĩ giữa bối cảnh xã hội xô bồ bên ngoài làng Trung Am lúc bấy giờ.
II. Điển cố và các hình tượng nghệ thuật trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" .
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người làm thơ Đường luật thành thạo, nhiều bài thơ của ông đã đạt đến độ tinh xảo, hoàn mỹ cả về mặt tư tưởng lẫn nghệ thuật. Ông tuân thủ khá chặt chẽ những quy ước nghệ thuật trung đại và cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm về tính bác học của văn chương như là thước đo tài năng thơ ca vốn rất phổ biến thời kỳ phong kiến. Trong "Bạch Vân quốc ngữ thi", một mặt buông thả cho tứ thơ bay bổng tự nhiên, mặt khác Nguyễn Bỉnh Khiêm lại rất đề cao các nguyên tắc cơ bản của thơ cổ điển : ít lời nhiều ý, hàm súc cô đọng. Vì vậy, việc lựa chọn sử dụng điển cố và xây dựng hình tượng nghệ thuật rất được Nguyễn Bỉnh Khiêm chú trọng.
Những điển cố và hình tượng nghệ thuật là nơi gửi gắm, dồn nén những ý tưởng, tình cảm sâu sắc của nhà thơ. Trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" ta có thể nhận thấy một số lượng rất lớn những điển cố và hình tượng nghệ thuật được tác giả sử dụng như là những phương tiện để biểu đạt tư tưởng, phong cách sống Lão Trang .
1. Điển cố trong "Bạch Vân quốc ngữ thi".
Điển cố là một kho tàng quý báu của một nền văn hoá. Đó có thể là những hình ảnh sinh động của sự tích lịch sử, là kinh nghiệm quý báu được tích luỹ từ cuộc sống của cha ông hay có thể là phẩm chất, trí tuệ phong phú của người xưa. Điển cố chính là những chuyện xưa tích cũ được tác giả dùng làm phương tiện diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc.
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu đã định nghĩa điển cố:
"Điển cố (nghĩa đen là việc cũ) là một chữ hoặc một câu có ám chỉ đến một việc cũ, một tích xưa khiến cho người đọc sách phải nhớ đến việc ấy mới hiểu ý nghĩa và cái lý thú của câu văn"[4;68].
Vì lẽ đó, nhà nho xưa thường lấy tích cũ để diễn tả cái ý tình của mình như là một kỹ thuật hành văn, làm thơ. Đối với luật thi, trong khuôn khổ hạn hẹp của số câu số chữ, nhà thơ xưa đã tận dụng những tinh hoa kinh sử mẫu mực để dồn nén tư tưởng, ý tình. Bởi thế, điển cố trong văn học không đơn thuần là biện pháp tu từ mà còn là dạng thức độc đáo để xây dựng hình tượng trong thơ. Điển cố do đó không chỉ có giá trị nhận thức mà còn rất giàu biểu cảm. Với tính sinh động và đa nghĩa, điển cố có thể giúp người đọc nhận thức được vấn đề một cách sâu sắc hơn.
Mặt khác, thói quen tư duy tổng hợp và tâm lý sùng bái cổ xưa của người phương Đông đã dẫn tới nhu cầu mô phỏng những mẫu mực đã có, lấy cái cổ xưa làm chuẩn mực để so sánh.
Đối với một người làm thơ luật tài năng như Nguyễn Bỉnh Khiêm thì việc dùng điển cố đã trở thành thói quen, cộng với quan niệm trong sáng tác và cảm thụ văn học nói chung, việc vận dụng điển cố đã trở thành nguyên tắc làm thơ của ông.
Có thể thấy trong Bạch Vân quốc ngữ thi, số lượng điển tích điển cố trích rút từ thánh điển Đạo gia không nhiều nhưng có khả năng biểu thị chiều sâu tư tưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm rất sâu sắc. Khi thi nhân buông một tiếng thở dài than thở thời gian trôi đi quá nhanh, ông đã sử dụng cách nói của Trang Tử với điển "Bạch câu quá khích":
"Tuổi đã ngoại tám mươi già
Thoắt thoắt xem bằng bóng ngựa qua"
(Bài 16)
Sử dụng điển cố trong "Nam Hoa kinh", Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn một cách nói ngắn gọn mà bóng bẩy về thời gian. Bóng ngựa lướt qua khe cửa là hình ảnh sinh động và giàu cảm xúc nhất mà thi nhân đã lựa chọn. Đó là sự lựa chọn trong tâm thế của một ông nhàn thảnh thơi chiêm nghiệm lại cuộc đời mình trong một ngày nhàn. Sở dĩ ông không chọn cách nói nào khác ngoài cách nói của Lão Trang là bởi vì trong ý thức về thời gian của một lão nhân ngoài tám mươi tuổi, cuộc đời trôi nhanh tựa mộng ảo; và vì thấm nhuần lẽ đạo "vô vi" mà lão nhân ấy có được cái nhìn bình thản như thế trước dòng chảy cuả thời gian.
Hay khi nhắc nhở con cháu về lẽ sống ở đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn lựa cách nói của Lão Tử, đó là điển “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” trong “Đạo đức kinh”:
“Đạo trời lồng lộng chẳng nào sai”
(Bài 27)
“Tội trời khôn thể trốn đâu nào”
(Bài 86)
Cái “Đạo trời” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói tới ở đây chính là đại đạo tự nhiên bất di bất dịch, là tạo hóa bất khả xâm phạm, chỉ có thể tuân theo, không thể làm trái. Thuận theo quy luật tự nhiên ấy mà sống thì mọi việc sẽ thuận lợi; nhưng nếu can thiệp, xâm phạm cái lẽ đạo ấy thì khó tránh khỏi thất bại, bởi “lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt”.
Tư tưởng Lão Trang trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" bộc lộ một cách rõ nét ở một câu thơ có thể nói là đã tỏ rõ phẩm chất bậc quân tử ở Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
(Bài 79)
Danh lợi, phú quý nói riêng, cuộc đời nói chung đối với Đạo gia chỉ như mộng ảo, phù vân. Câu thơ này nhắc ta nhớ đến giấc hồ điệp của Trang sinh: một lần Trang nằm mơ thấy mình hóa bướm, tỉnh dậy mơ hồ tự hỏi mình không biết mình hóa bướm hay bướm đã hóa mình? Câu chuyện chỉ ngụ một ý: hư thực cuộc đời khó mà phân định; xét cho cùng người sống ở đời chỉ là một tồn tại tạm thời, phù du bởi cuộc đời chỉ là giấc mộng mà thôi. Đó là tinh thần tiêu dao, tự do tự tại của Lão Trang mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp nhận để sống ung dung, nhàn tản, không coi trọng lợi danh, phú quý ở đời.
Lịch sử Trung Quốc mấy nghìn năm phong kiến trải bao thăng rồi trầm khiến cho nhiều lúc Nho học mất địa vị độc tôn. Trong những giai đoạn suy thoái của các vương triều, nhiều nho sĩ không thực hiện được lý tưởng hành đạo của mình, đã quay lưng lại với con đường lập danh, bỏ chốn tường đào cửa mận để tìm đến Lão Trang như là một con đường giải thoát, cân bằng tâm thế. Vì lẽ đó, đã xuất hiện những nhân vật kiệt xuất, lẫy lừng tên tuổi cả trong lịch sử lẫn văn học khi đi theo con đường mà Lão Đam, Trang Chu, Dương Chu đã chọn. Con đường xử thế, tàng thân của họ đã đi vào thơ ca và trở nên những tấm gương báu cho người đời sau học tập. Họ là những Tô Đông Pha, Khương Tử Nha, Nghiêm Quang, Lâm Bô, Đào Tiềm. . . gắn liền với những địa danh đã trở thành điển cố: Thạch Bàn, Ải Bắc, ngòi Đông, Phú Xuân, Đồng Giang. . .
Cũng giống như nhiều nhà thơ cổ điển khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường hướng về những tấm gương phẩm tiết của người xưa mà ngưỡng vọng, ngợi ca. Đưa những điển cố ấy vào thơ là một phương thức thi nhân bày tỏ sự sùng kính của mình đối với các nhân vật ấy. Quan trọng hơn, đó còn là cách để nhà thơ “tỏ chí”, muốn theo gương người đi trước.
Trong "Bạch Vân quốc ngữ thi", lớp điển cố này được sử dụng vô cùng phong phú, trước hết là với mục đích tổ chức ngôn từ theo nguyên tắc tiết kiệm lời và đảm bảo khuôn khổ câu cú, niêm luật. Trong tập thơ đã có những câu thơ chỉ nhắc đôi từ trong các điển xưa mà vẫn thể hiện một tư tưởng bay bổng, phóng khoáng và mạnh mẽ:
“Gẫm ấy ai phù vạc Hán
Đồng giang rủ một tơ câu”
(Bài 31)
“Tây Hồ thuyền nổi hoa mai bạc
Bắc ải cầm xoang vựng nguyệt thanh”
(Bài 17)
“Năm Hồ có khách thênh thuyền mọn
Chờ nguyệt đêm thanh hé bóng mai”
(Bài 20)
Đối với nhà nho trung đại, làm thơ “ngôn chí” thì không thể không nhắc đến những nhân vật đã nêu gương phẩm tiết thưở xưa. Khi nhắc đến những nhân cách sáng ngời, những phẩm cách bậc trượng phu thưở trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm hẳn muốn lấy mẫu mực đạo đức người xưa để noi gương, bắt chước và tự chiêm nghiệm lại mình. Những nhân vật được ông nhắc đến nhiều nhất trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" là Khương Tử Nha với các điển “Ngòi Đông”, “Bàn Thạch”; là Nghiêm Tử Lăng với các điển “Đồng Giang”, “Phú Xuân”; là Hứa Do, Sào Phủ với điển “Bầu Cơ Sơn”; Lâm Bô, Đào Tiềm với điển “Tây Hồ, Ải Bắc”, Phạm Lãi với điển “Ngũ Hồ”. . Đây đều là những con người lừng lẫy, những địa danh tiếng tăm gắn với những câu chuyện bỏ triều quan đi ẩn dật, tỏ với đời phẩm chất cao khiết, khí tiết thanh cao, không màng thế tục của những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Hoa.
Họ đều là những danh nho tài đức vẹn toàn, song trước sau đều bỏ con đường lập thân giương danh để về vui thú cảnh lâm tuyền, điền viên. Trước thời cuộc xô bồ ngang trái họ đều quay lưng lại với vương triều phong kiến để tìm nhàn nơi thôn dã quạnh vắng, di dưỡng tinh thần. Những nhân vật này ít nhiều đều gặp niềm bi kịch “sinh bất phùng thời”, không có điều kiện thi thố tài năng, đành chọn con đường xử thế mà các danh gia của Lão Trang đã đề xướng làm lẽ sống. Hứa Do, Sào Phủ không tham thiên hạ, không nhận ngai vàng Nghiêu trao, lập chí, dưỡng tâm ở Ngọc Lĩnh. Lã Vọng căm ghét vua Trụ bạo ngược, không ra làm quan, thường ngày tiêu dao, buông cần bên bờ sông Vị. Lâm Bô tài đức song toàn mà bất hợp tác với triều Tống, ẩn dật bên Hồ Tây, vui thú cảnh nuôi hạc, trồng mai. Nghiêm Tử giúp Lưu Tú dựng lại cơ đồ nhà Hán rồi bỏ bạn mà về ẩn dật núi Phú Xuân. Đào Tiềm hơn mười năm làm quan mà “quá thẹn với chí bình sinh”, viết “Quy khứ lai từ”tỏ chí muốn về vui thú thanh nhà chốn nước non giữ tiết tháo trong sạch. . . Những gương đạo đức cao khiết ấy đã đi vào thơ ca đời sau như là những biểu tượng nhân cách, những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ.
Với Bạch Vân, những nhân vật kiệt xuất ấy là gương khí tiết. Ông bắt gặp ở họ sự đồng điệu về tâm hồn, nhân cách. Cũng là một danh sĩ chán nản với thời cuộc, bỏ vương triều về với thôn quê, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm thấy ở Nghiêm Quang, Lã Vọng, Đào Uyên Minh. . . sự đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ. Những điển tích điển cố về họ do vậy đi vào thơ ông rất tự nhiên:
“Kìa kìa Lã Vọng câu Bàn Thạch
Nọ nọ Nghiêm Quang náu Phú Xuân”
(Bài 142)
“Nọ khách ngòi Đông tay rủ câu”
(Bài 9)
Chịu ảnh hưởng của học thuyết Lão Trang, lại phải va chạm với hiện thực của chế độ phong kiến mục ruỗng, các danh sĩ tiết tháo thưở trước đã dựa vào Đạo gia để tỏ sự bất mãn của mình. Tuy nhiên đó không phải là thái độ phủ nhận đối với địa vị chính thống của Nho học mà chỉ là phương cách tạo thế quân bình giữa Nho và Đạo.Do vậy, ngợi ca những con người đã bỏ công danh để quay về sống thuận với tự nhiên, “vô vi” nhàn tản nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm không quên thời đại mình đang sống. Bóng dáng những ẩn sĩ trong các điển cố xuất hiện trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" được Nguyễn Bỉnh Khiêm lưu giữ như một giấc mơ an lạc đang dần mất, như một phương thức cân bằng tâm thế của một ẩn nho chưa bao giờ nguôi nỗi đau thế sự. Bạch Vân tìm về những gương người xưa ấy như là một cách chiêm nghiệm, một niềm an ủi rằng quy ẩn là con đường duy nhất, sự lựa chọn đúng đắn nhất của ông để noi gương tiền nhân giữ trọn thân danh trong bối cảnh thời đại bấy giờ.
2. Những hình tượng nghệ thuật trong “Bạch Vân quốc ngữ thi”.
Văn học là nghệ thuật xây dựng hình tượng. Hình tượng nghệ thuật là nơi đúc kết tư tưởng, gửi gắm triết lý nhân sinh và bày tỏ quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Tư tưởng nghệ thuật dù tầm vóc lớn đến đâu cũng đều được biểu hiện thông qua hình tượng, từ những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhặt nhất.
Trong "Bạch Vân quốc ngữ thi", có những hình tượng nghệ thuật đã trở thành những điểm sáng thẩm mỹ góp phần thể hiện một tinh thần, một quan niệm sống đậm màu sắc Lão Trang. Đó có thể là những nguyên mẫu con người trong lịch sử hoặc những thành ngữ từng gặp rất nhiều trong thơ ca cổ điển chứ không phải là sáng tạo riêng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Do vậy, những hình tượng này tuy không sinh động mà có sức khái quát tư tưởng lớn lao.
Trong nhiều bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai hình tượng Nghiêm Quang, Lã Vọng xuất hiện như là những tín hiệu thẩm mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà hai nhân vật này trở đi trở lại nhiều lần trong thơ Bạch Vân. Đó phải chăng là hai hình tượng nghệ thuật mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm nhiều suy tư nhất:
“Nọ khách ngòi Đông tay rủ câu”
(Bài 9)
“Đồng Giang rủ một tơ câu”
(Bài 31)
“Kham hạ Nghiêm Quang từ tước Hán”
(Bài 125)
-“Kìa kìa Lã Vọng câu Bàn Thạch
Nọ nọ Nghiêm Quang náu Phú Xuân”
(Bài 142)
“Non Phú Xuân cao, nước Vị thanh”
(Bài 149)
Từ xưa, Nghiêm Tử Lăng, Khương Tử Nha đã trở thành những cái tên cao quý biểu trưng cho phẩm tiết thanh cao của ẩn sĩ. Đi vào thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những điển cố, hai nhân vật này đã trở thành những hình tượng nghệ thuật có sức mạnh khái quát tư tưởng: đó là hình tượng của những nhân cách cao khiết, những tấm gương đạo đức mà nho sĩ đời sau muốn noi gương. Khắc ghi hai hình tượng này một cách đậm nét trong thơ của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trực tiếp bày tỏ thái độ trân trọng ngợi ca đối với những ẩn giả danh tiếng đời xưa - những người đã lựa chọn con đường xử thế của Lão Trang khi không thể thực hiện lý tưởng “trí quân trạch dân” mà Khổng phu tử đề xướng.
Trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" cũng có những thành ngữ đã trở thành những hình tượng nghệ thuật giàu sức biểu cảm, mang đậm dấu ấn Lão Trang. Vốn dĩ không xuất phát từ thánh điển của Đạo gia, nhưng các thành ngữ này được sử dụng để biểu thị ý nghĩa phủ định danh lợi, ngợi ca cuộc sống ẩn dật, thanh nhàn. Tiêu biểu nhất phải kể đến các thành ngữ “Nhà thông đường trúc”, “cửa mận tường đào”, ”Ải Tần non Thục”, . . .
Cái ý phủ định danh lợi có hầu khắp các bài thơ trong "Bạch Vân quốc ngữ thi". Có khi Nguyễn Bỉnh Khiêm nói thẳng “đường danh lợi có chông gai”, nhưng có khi ông chọn cách nói hình tượng hơn:
“Ải Tần non Thục đường nghèo hiểm”
(Bài 23 )
Ví con đường công danh như con đường vào đất Thục, qua ải Tần, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trực tiếp bày tỏ thái độ phủ nhận đối với danh lợi, coi danh lợi là hư ngụy, phiền toái như tội trời. Đây là điểm thừa kế tích cực của Nguyễn Bỉnh Khiêm với tư tưởng Lão Trang.
Ngợi ca cảnh sống nhàn dật, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đặt nó trong thế đối lập với công danh. Biểu đạt ý tình này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn những hình tượng nghệ thuật giàu sức khái quát nghệ thuật :
“Nhà thông đường trúc lòng hằng mến
Cửa mận tường đào bước ngại chen”
(Bài 44)
“Thông”, “trúc” vốn là những loài cây biểu trưng cho phẩm tiết thanh cao của người quân tử. Khi đi vào thơ Bạch Vân – người sống gần trọn đời trong cảnh ẩn dật, đã trở nên những loài cây ở chốn thanh tịnh - chốn ở của ẩn sĩ . “Nhà thông, đường trúc” trở thành biểu trưng nghệ thuật của không gian nhàn dật, tĩnh lặng của hàn nho, ẩn quân tử; giản dị đượm vẻ thanh bần mà trong sạch, cao quý.
Trái lại, “Cửa mận tường đào” lại là hình ảnh biểu trưng cho chốn quan trường, đua chen danh lợi. “Mận”, “đào” chỉ được trồng chốn công đường, cửa quan, biểu tượng của quyền lực, sự giàu sang, vinh quý từ xưa trong văn học. Trong "Bạch Vân quốc ngữ thi", hình tượng này trở đi trở lại nhiều lần trong thế đối lập với “am hoa”, “hiên trúc”. . . như là một thái độ phủ nhận triệt để của tác giả đối với danh lợi chốn quan trường, trái với thái độ ngợi ca trân trọng đối với cảnh sống thanh bần, trong sạch giữa không gian của “thông”, “trúc”.
Những hình tượng nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là kết quả tư duy nghệ thuật của riêng ông. Chúng vốn là mẫu mực trong văn học cổ điển, được ông vận dụng để biểu đạt ý tình riêng của mình. Dù vậy, sức khái quát nghệ thuật của những hình tượng này rất lớn, đặc biệt là với loại thơ ngôn chí vốn chỉ cần sức khái quát tư tưởng nhiều hơn là khả năng biểu cảm và tính sinh động.
Tư tưởng Lão Trang thể hiện trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" không phải bằng những phát ngôn thâm viễn của Lão Tử, Trang Tử hay những thuật ngữ của Đạo gia mà thông qua những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của thi pháp- mỹ học trung đại. Ngôn từ, những điển cố và hình tượng nghệ thuật được sử dụng theo hướng “Lão Trang hóa” đã góp phần biểu đạt hình ảnh Bạch Vân cư sĩ - con người tư tưởng - nhà thơ trong tinh thần Lão Trang rất đậm nét. Được sử dụng một cách có hệ thống, những thủ pháp nghệ thuật này đã tạo nên những điểm sáng thẩm mỹ và tư tưởng cho tập thơ, đem đến cho "Bạch Vân quốc ngữ thi" ý vị “Đạo” sâu sắc. Có thể nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt đến trình độ bậc thầy trong việc làm thơ thất luật, đồng thời là học giả uyên bác đã tiếp thu một học thuyết, tư tưởng cao thâm của người xưa vào trong thơ mình một cách mềm mại, tinh tế.
t-siq �03 5 �� P� 96)Nếu không có cái cốt cách ung dung tự tại của bậc cao sĩ biết quý trọng tự nhiên, cái tâm hòa đồng cùng vạn vật, thi nhân không thể cảm nhận, phát hiện được vẻ hữu tình của thiên nhiên ngay trong những điều giản dị của cuộc sống thường ngày.
Dẫu sử dụng bút pháp ước lệ, ngôn ngữ trang nhã để miêu tả thiên nhiên lộng lẫy gấm vóc hay thổi hồn sống động tự nhiên cho những cảnh vật thanh đạm nhẹ nhàng thì thiên nhiên trong "Bạch Vân quốc ngữ thi" vẫn hiện lên rất tươi tắn, hữu tình bởi với thi nhân, đã là cảnh trí “nước non nhà” thì “chốn nào là chẳng chốn xuân phong”; tác giả có thể tìm thấy niềm hứng khởi thi ca ở bất cứ nơi đâu.
Đoạn tuyệt với thói ô trọc ở đời để trở về bến Trung Tân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm thấy ở thiên nhiên nguồn nuôi dưỡng tinh thần, nguồn suối di dưỡng cho tâm hồn thanh tịnh. Vẻ thuần phác của tự nhiên chính là gốc thanh khiết đưa con người trở về với trạng thái nguyên sơ, hồn nhiên của cảm xúc. Cái thuộc tính “phác” của tự nhiên mà Lão Tử thường đề cập đến chính là khả năng giúp con người tu tâm dưỡng tính để sống an lạc trong cảnh tự tại, tiêu dao:
“Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình”
(Bài 91)
“Cảnh cũ điền viên tìm tính cũ
Khách nhàn sơn dã dưỡng thân nhàn”
(Bài 44)
“Thanh nhàn dưỡng tính được tự nhiên”
(Bài 127)
Tìm về bến đỗ bình yên cho tâm hồn và thân xác sau mỗi lần trở về từ kinh kỳ bụi bặm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thực sự được thiên nhiên tắm gội tinh thần. thi nhân nhờ đó mà trút sạch được gánh nặng lợi danh, gột rửa được nỗi ưu tư nhọc nhằn về thời thế. Thiên nhiên lại gieo vào lòng nhà thơ những nguồn hứng khởi mới về thi ca. Sống giữa mối giao cảm chan hòa ấy với thiên nhiên, Bạch Vân thi sĩ có được những khoảnh khắc vượt lên trên mọi giới hạn khách quan của cuộc đời đầy biến động để tự tại, thung dung hưởng “ thiên nhiên lộc” đến thỏa chí:
“Đủng đỉnh hôm mai chơi nước trí
Nghêu ngao ngày tháng dạo non nhân”
(Bài 142)
“Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao”
(Bài 89)
Với một nguồn cảm hứng dạt dào, Tuyết Giang phu tử đã trao cho thiên nhiên một vị trí đặc biêt trong thơ ông : là nguồn hứng khởi thi ca, là người bạn cố tri để gửi gắm tâm sự, nơi thanh tịnh để di dưỡng tinh thần. Tình yêu tha thiết và sự quý trọng ấy đối với thiên nhiên đã bộc lộ nét đẹp trong nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như trong tâm hồn bao đời người Việt: luôn biết đặt mình trong mối tương giao hòa hợp với tự nhiên để sống tốt đẹp hơn.
Phong cách sống thuận tự nhiên theo thuyết vô vi của Lão Trang đã đem đến cho thơ nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm những tứ thơ đẹp lạ lùng về thiên nhiên va tâm hồn con người. Tinh túy của Đạo gia đã được ông chắt lọc, kế thừa để làm nên một "Bạch Vân quốc ngữ thi" ngập tràn cảm hứng tiêu dao với những mảng thiên nhiên thanh nhã, tươi tắn bên cạnh mảng thơ luân lý đậm màu sắc Khổng Mạnh. Có được điều đó là nhờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thực sự thấu đạt cái “phi thường đạo”- cái Đạo bắt chước tự nhiên mà Lão Tử nói đến trong “Đạo đức kinh” để sống tương hợp thuận hòa với tạo vật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét