CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG ANH BÀI VIẾT HỌC
THUẬT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ TIỂU THUYẾT CỦA HERMANN HESSE CỦA GIÁO SƯ ŞTEFAN BORBÉLY:
HERMANN
HESSE ’S SPIRITUAL FORMULA
Ştefan BORBÉLY - Giáo sư khoa văn học tại đại học
Babes-Bolyai là thành viên sáng lập Hiệp hội Nhà văn chuyên nghiệp của Rumani
(Aspro), Cơ sở văn hóa Equinox và là một thành viên của Hội Nhà văn của Rumani
(chi nhánh Cluj), Hiệp hội Văn học so sánh Rumani. Giáo sư Stefan Borbely đã viết và xuất bản
một số công trình nghiên cứu về Hesse, được tập hợp trong cuốn The
Steppenwolf's Dream và Starting from Nietzsche.
Công trình Công thức tâm linh của Hermann
Hesse của ông được công bố lần đầu tiên trên tạp chí học thuật Philologica
Jassyensia[1] của Học viện Rumani ở
Iassy với nhan đề: Stefan Borbely: Hermann Hesse’s Spiritual
Formula. Hai năm sau,
công trình này được chỉnh sửa để đáp ứng với yêu cầu học thuật của một bộ yếu
lược văn học quốc tế về tiểu thuyết thế kỷ XX, được hiệu đính bởi giáo sư
Micheal Sollar tại Đại học Texas : The
facts on file companion to the world Novel, 1900 to the present[2].
Đây là một bộ sách lớn với hơn 600 mục là những bài viết học thuật
điển hình của rất nhiều học giả nghiên cứu văn học trên thế giới về các tác gia
-tác phẩm văn học thời kỳ hiện đại.
Nghiên
cứu này của Borbely xem xét những ảnh hưởng khác nhau đã để lại dấu ấn sâu sắc
trong tác phẩm của Hesse: tình bạn của ông với Thomas Mann, đời sống và các tôn
giáo Đông phương, phong cách Nietzsche, Phân tâm học Jung, ảnh hưởng trái ngược
của người mẹ và người cha; chiến tranh thế giới…trong tiểu thuyết của Hermann
Hesse.
* **
Hermann Hesse là đại diện
xuất sắc của trường phải hậu-lãng mạn, suy đồi hiện đại ở Châu Âu vào nửa đầu
thế kỉ XX. Hesse đã xây dựng một tình bạn thắm thiết với Thomas Mann, người bạn
thường chia sẻ về những chủ đề văn học với ông, đặc biệt là những chủ đề liên
quan đến mối quan hệ giữa trật tự chắc chắn vững vàng của giai cấp tư bản trong
sự đối lập với nỗi cô đơn, chủ nghĩa tự do phóng túng, xung năng tính dục ở người
nghệ sĩ. Hesse cũng bị thu hút bởi phong cách sống phương Đông và đạo Phật qua
những kỷ niệm về gia đình với nhiều thành viên hoạt động với tư cách là những
nhà truyền giáo ở Ấn Độ, và qua chuyến đi đến Sri Lanka và Indonesia tiến hành
vào năm 1911 cùng với người bạn họa sĩ là Hans Sturzenegger ở Schaffhausen. Hermann
Hesse đã ghi lại kinh nghiệm chuyến du hành trong nhật ký xuất bản năm 1913(Aus
Indien; Từ Ấn Độ), và trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Siddhartha
xuất bản năm 1923 (bản dịch tiếng Anh năm 1951). Chủ đề phương Đông được giới
thiệu nhiều trong sáng tác của ông bởi ông cho rằng sức sống và sự thanh bình
kiểu phương Đông có thể tạo ra thuốc chữa cho sự u uất, chủ nghĩa suy đồi, sự tự
xa lánh và tha hóa ở Châu Âu. Sự nổi loạn hay đúng hơn là rối loạn tinh thần, sự
mâu thuẫn trong tính cách đã kéo ông vào nhiều chấn động tâm lí nặng nề, chẳng
hạn những cuộc xung đột lặp lại nhiều lần
với cha mẹ, một cuộc đào tẩu có dự tính khỏi trường học (được mô tả trong truyện
ngắn Dưới
bánh xe (1906), bản dịch tiếng Anh Beneath the wheel), một lần cố gắng
tự tử (1892) cũng như vài lần ra vào những trung tâm chữa trị thần kinh nơi ông
đã tiếp cận với tâm lý học của Jung.
Để bù lại cho sự nhạy cảm
và yếu đuối cá nhân, Hesse đã cố gắng tự bảo vệ
mình bằng cách xây dựng bầu không khí phương Đông xung quanh mình, giữa một nền
chính trị hung hăng cuồng bạo ở Châu Âu. Ông rời Đức và chuyển đến Thụy Sĩ năm
1912 (theo sự nghiệp của hình tượng ám ảnh ông là triết gia Nietzsche), từ bỏ
quốc tịch Đức năm 1923, chọn làm vườn và vẽ tranh, định cư ở những ngôi làng
như Gaienhofen (cùng với người vợ đầu tiên Maria Bernoulli vốn bị rối loạn thần
kinh), rồi chuyển tới Montaglola, miền Nam Thụy Sĩ nơi ông cố gắng gắn bó với
cuộc sống đồng quê thanh tao hàng ngày, cho đến khi ông mất năm 1962.
Mặc dù ông cương quyết
cho rằng người nghệ sĩ nên sống một cuộc sống bên lề, tự do phóng túng (kiểu
bohemian), bên ngoài những gò bó của chính trị và xã hội, nhưng bài luận ngắn của
ông: Ồ!
Bạn ơi, không phải giọng ấy, xuất bản tháng 11 ngày 3 năm 1914, trong
thời kì chiến tranh thế giới I đã được biết đến rộng rãi như là một lời cảnh
báo chống lại lòng căm thù cộng đồng và Đế Quốc Đức. Suốt cuộc chiến tranh,
Hesse đã giúp những người dân tị nạn và cam kết chính mình vào những hoạt động
nhân đạo, và cuối cùng, khi bọn Phát xít lên nắm quyền ở Đức, ông đã như một
người tự nguyện lưu vong, và cũng giúp Thomas Mann và những người dân tị nạn
khác tìm đường đến tự do.
Bị ám ảnh bởi phong
cách Friedrich Nietzsche, Hesse đã viết nên bản tuyên ngôn nhiệt huyết chào mừng
sự kết thúc của Chiến tranh thế giới I và sự bắt đầu của kỉ nguyên mới (Sự trở
lại của Zarathustra- một lời cho Thanh niên Đức 1919-1920, ấn bản đầu
tiên ký tên vô danh), Hesse đã chuyển hóa nhận thức của Nietzsche về mâu thuẫn
bổ sung cho nhau giữa nguồn năng lượng “Apollo” và cảm hứng “Dionysos” vào hai
bản thể có nhân cách đối cực trong tiểu thuyết Demian (năm 1919, bản tiếng
Anh năm 1923), Mùa hè cuối cùng của Klingsor (1920), và Narziss và Goldmund
(1930, bản tiếng Anh tên là Cái chết và Tình yêu, 1932). Những tác
phẩm này cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Hesse
đối với tâm lý học phân tích của Jung. Chính tác giả sau đó cũng đã chỉ ra rằng
cốt truyện trong Demian là một quá trình cá nhân hóa điển hình. Sự nghiệp rạng rỡ
của Goldmund bên ngoài tu viện trong Narziss và Goldmund cũng tương tự
như một cấu trúc cá nhân hóa, với sự bổ sung vào phức cảm tâm lý cơ bản những đặc
điểm riêng về huyền thoại mẹ, với một cắt nghĩa có thể phát hiện ra trong chấn
thương thời thơ ấu của Hesse. Hesse trải qua sự
chữa trị bằng phân tâm học Jung vào tháng 5 năm 1916, khi ông điều trị chứng rối
loạn tâm lí tại trại điều dưỡng gần Luzern. Ông gặp một bác sĩ trẻ tên là J.B
Lang, người đã tạo ấn tượng mạnh với ông bởi việc điều trị cho ông với phương
pháp phi chính thống-phương pháp của Jung dựa trên thông diễn học của biểu tượng
và cổ mẫu văn hóa xa xưa. Bác sĩ Lang đồng
thời cũng là người khuyến khích Hesse bày tỏ nỗi
sợ hãi và mặc cảm của mình ra bằng việc vẽ tranh. Nhà văn sẽ luôn duy trì trung
thành phương pháp điều trị này, bằng việc hoàn thành hơn 3500 bức tranh sơn dầu
và tranh màu nước, một số trong chúng được
sưu tập bởi bảo tàng Hermann Hesse ở Montagnola. Một mẫu của bộ sưu tập uy tín
này được mang về Mỹ năm 1999 bởi Bảo tàng Đại học Oglethorpe. Phong cách hội họa
của ông đầy màu sắc, theo trường phái Biểu hiện ôn hòa (không triệt để), và được
coi là sự biến cách của phong cách của Klingsor, người họa sĩ trong truyện ngắn
Mùa
Hè Cuối Cùng của Klingsor. Sự phối màu trong những bức tranh này cũng
cho thấy sự hỗn độn của nhục cảm và tinh thần nghệ thuật, giới hạn trong ý thức
về cái chết và sự diệt vong. Vẽ chân dung bản thân kiểu Dionysos hoang dại lúc
kề cận cái chết, Klingsor cố ý chuyển phong cách và màu sắc hội họa của mình
thành năng lượng của hủy diệt, đầy nghệ thuật, được truyền cảm hứng bởi sự thôi
thúc ma quỷ dâng lên từ cõi tối tăm. Họa trên tác phẩm “Nguồn gốc bi kịch” của
Nietzsche,(1871-1872) lấy cảm hứng từ tác phẩm “Thế giới như là ý chí và biểu tượng” của Schopenhauer 1816, Hesse lấy chủ
đề sự sáng tạo nghệ thuật được thai nghén như quá trình suy vi, tự phá hủy- vốn
là cấu trúc thường thấy trong nhiều tiểu thuyết của Thomas Mann. Kiểu nhân vật
“rực rỡ” (flamboyant) của Hesse, trong cách hiểu đặc biệt của Nietzsche, là một
Ngọ
nhân[3]
cuồng nhiệt (exuberant) kiểu Dyonisos và là một kẻ tôn thờ Mặt trời, người hướng
nghệ thuật của mình ra ngoài khuôn khổ hình thức, vào sắc màu nỗi đau khổ và sự
hủy diệt. Nhân vật của Hesse chủ yếu mang sắc
thái ẩn dật của những người ưa những nơi u ám, bất chấp sự tự do phóng khoáng cô
độc kiểu Bohemien, vốn là tính cách đã đưa họ rời xa những thị trấn và nhà cửa,
đi khai phá những không gian rừng núi và thảo nguyên. Như là một hệ quả, Mặt trời
hầu hết được đề cập đến trong các tác phẩm của ông với niềm đam mê có tính hủy
diệt. Như chúng ta sẽ thấy, sau khi rời lãnh địa tâm linh Castalia, Josef Knecht,
bậc thầy trò chơi hạt thủy tinh cũng bị khắc chế bởi sức mạnh của mặt trời mọc.
Hình mẫu anh hùng điển
hình của Hesse là chống tư sản, tự do phóng túng kiểu bohemien, vô chính phủ,
nghệ sĩ và người lang thang, được biểu hiện trong những tác phẩm đầu tay như Peter
Camenzind (1914), Knulp (1915) và đặc biệt trong Sói đồng
hoang (1927 bản dịch tiếng Anh năm 1929, sửa đổi năm 1963). Sói đồng
hoang trở thành “Kinh thánh” cho phong trào phản văn hóa của xã hội mới
vào những năm 60 ở Mỹ và Tây Âu. Một ban nhạc nổi tiếng từ California, Sparow,
đổi tên thành Sói đồng hoang; bài hát
của họ “Born to be wild” phát hành năm 1968 được dựng thành phim Easy Rider.
Harry Haller, nhân vật chính bị xã hội ruồng bỏ trong tác phẩm, đã thu hút được
những người trẻ chống đối của thập niên 60 chính vì tính cách nửa đàn ông, nửa
phụ nữ của anh ta, những tính cách đó được anh ta vượt lên (transcend) bởi những
ý nghĩa của tình yêu mà phép nhiệm mầu. Nhiều người hippy của thập niên 60 tự
coi họ là những “Sói đồng hoang” với sự thôi thúc vi phạm những sự phân bậc và
quy tắc. Họ cũng yêu mến Harry Haller bởi vì anh ta đã từ chối những giá trị để
trở thành người lớn và khát khao nghịch lý được giữ nguyên là một đứa trẻ ngây
ngô trong vũ trụ. Nhiều nhân vật được xây dựng trong những tác phẩm lớn của Hesse mang hơi hướng tính cách trẻ con. Tỉnh Castilia
không tưởng nơi tập hợp những người anh em ưu tú chơi trò hạt ngọc thủy tinh
cũng được mô tả là vùng đất tâm linh trẻ thơ bị bao vây bởi ảnh hưởng trưởng
thành vì chính trị và lịch sử.
Phong cách dựng hình
nghệ thuật theo hướng u sầu, tự do phóng túng kiểu bị xã hội ruồng bỏ luôn đeo
đuổi Hesse từ lúc khởi đầu sự nghiệp văn
chương của ông. Vả chăng, nó đi vào những câu chuyện của ông như những cấu trúc
đối lập giữa sự cứng nhắc cằn cỗi của những người tổ chức xã hội, như người đàn
ông trong gia đình, giai cấp tư sản hay những kẻ vô học, và sự hoa mỹ, tâm hồn
phong phú của những kẻ lang thang. Hesse cũng có cùng chung mối quan tâm với Nietzsche
và Thomas Mann về “tính nghệ thuật”, sự rực rỡ thuộc Ý hay nam Địa Trung Hải,
như là sự đối lập với sự mờ ảo, u ám của chất Bắc Đức. Trong phản đề này, cái
đã giải thích cho nhiều tính cách của những nhân vật chính, cái chất Bắc Đức
đóng vai trò của dạng tổ chức, hạn chế, trong khi chất Nam Địa Trung Hải -
tương tự như những gì diễn ra trong Death in Venice của Thomas Mann-
đóng vai trò của nguồn cảm hứng hủy diệt kiểu Dyonisos của thế giới ngầm. Cấu
trúc đối chọi này được dùng bởi Hesse lần đầu
trong tác phẩm Knulp, trong đó nhân vật chính là một ông già sống bên lề xã hội.
Knulp lang thang về nơi sinh ra để tìm cho mình một lối đi yên bình tới cái chết
và tái hòa nhập vào nhịp điệu tự nhiên thuần túy. Lão già Knulp đã luôn luôn là
một kẻ lang thang phóng túng; bất chấp áo rách giày mòn, dường như ông ta được
trời phú cho một phong cách hùng biện nổi bật và sự xuất chúng của con người.
Thời trẻ, Knulp rời bỏ quê hương ở miền bắc để chu du xuống miền Nam , trong sự
tìm kiếm niềm đam mê nghệ sĩ. Ông ta chưa bao giờ có một việc làm hay nhà cửa,
nhưng lúc nào cũng thành công trong việc làm hài lòng mọi người, bởi vì ông ta
có khả năng làm dịu đi sự buồn phiền, nỗi đau khổ và những suy nghĩ u uất. Theo
định nghĩa cổ điển xa xưa được của những người Hy lạp Athenaois (thế kỉ 3 trước
công nguyên), Knulp có thể là kẻ sống ký sinh, tên phù thủy quyến rũ. Bất cứ
nơi đâu anh ta dừng chân, anh ta cư xử như là tấm gương soi cho kẻ khác. Người
ta hạnh phúc với Knulp, người xuất hiện để biết mọi người anh ta gặp trên con
đường lang thang, khiến người ta cảm thấy đời họ như trở thành ngày hội.
Thật
phù hợp, đàn ông, đàn bà và trẻ con (cả động vật) trải nghiệm sự nhiệt tình khi
anh ta xuất hiện, đối xử với anh ta tử tế, khuyến khích anh ta ở lại bao lâu
anh ta muốn. Trong quan niệm kiểu Nietzsche, Knulp là một Ngọ nhân hoàn hảo, một
kẻ quyến rũ không có bóng, nghĩa là có
tất cả sự chân thành, chan hòa và sự vắng bóng khổ đau cũng như thói xấu. Hesse
đã nói về Knulp và trước đó là Peter Camenzind (1904) rằng họ tiêu
biểu cho hình ảnh phản-suy đồi của “con người tự nhiên” được tán thành bởi
Jean-Jacques Rousseau. Vì sự thanh thản vui tươi, Knulp cũng xuất hiện –theo
Nietzsche- như là một hình ảnh “phản Chúa”, đúng hơn là tương đồng với thần
Dionysus, người đến từ thế giới bên ngoài và là kẻ lang thang. Trong chương cuối
của tiểu thuyết miêu tả Knulp như là đứa con cưng của Chúa, đang trên đường lên
thiên đàng, nơi mà anh ta hi vọng Chúa Cha sẽ cứu rỗi anh ta khỏi những gánh nặng,
như là phần thưởng cho việc giúp con người trên trái đất có cuộc sống dễ chịu
hơn.
Phản đề mang tính lãng
mạn giữa sự tồn tại tự nhiên và sự ruồng bỏ xã hội đã đánh dấu thành công bước
đầu của Hesse, đó là Perter Camenzind (1904), một tiểu
thuyết giáo dục (Bildungsroman), nhân vật chính là thế hệ sinh ra từ một cộng đồng
biệt lập, cổ xưa (Nimikon), cộng đồng đó sinh sống trong sự hài hòa bất tận với
tự nhiên ở miền núi cao trên dãy Alps. Peter lớn lên với một tín điều rằng
không thể có sự khác biệt căn bản nào giữa những con người, hoa lá và cây cỏ, một
khi tất cả đều có chung tâm hồn phong phú của vũ trụ.
Khi
lớn lên, sự vốn am hiểu truyền thống của Peter trở thành một ý thức hệ nhân đạo
dựa trên sự hồn nhiên và lòng vị tha. Anh ta hướng tới một niềm sùng kính cháy
bỏng đối với Thánh Francis xứ Assisi, thờ phụng cõi Niết bàn của Phật giáo và sự
ẩn dật khổ hạnh trong cuộc sống của Tolstoy, và hát những bài thánh ca chứa
chan lòng tôn sùng chung được gọi là Dionysos-Hermes-Eros (tên các vị thần),
cái mà anh ta tìm thấy ở rượu và tình yêu đối với Erminia Aglietti, một nữ họa
sĩ lớn tuổi hơn.
Khi tiếp cận với “nền
văn minh” (trong trường hợp đặc biệt của anh ta, Florence
và Italy
là mảnh đất màu mỡ của tư sản châu Âu), Peter đã trải nghiệm sự lố bịch của xã
hội hiện đại. Cuối cùng anh ta đã bị xã hội đó làm cho ô uế khi trở thành một
phóng viên lành nghề và khi anh hiểu biết sâu sắc về Paris , một thành phố mà Peter coi là nơi tập
trung mọi tranh chấp của con người. Tuy nhiên, những nỗi khổ não đó không thể
thay đổi được những tính cách căn bản, sự
hài hòa với tự nhiên được thừa hưởng từ những thế hệ cha ông sống ở miền
núi cao. Anh ta vẫn còn nguyên vẹn, bất chấp những trải nghiệm cay đắng có liên
quan tới những tác động phá hoại của quá trình văn minh hóa. Anh ta là một con
người “lạc quan”, toàn vẹn trước những thử thách và sự tiêu cực. Hesse miêu tả anh ta như một Zarathustra mới, người đã đã
thỏa mãn khát vọng của mình bằng cách rút về sống ở ngôi làng trên cao nguyên,
nơi anh quản lý một quán trọ để phụng dưỡng người cha. Đó là nơi anh ta lấy lại
được nguồn năng lượng vũ trụ tự nhiên, giản dị và chắc chắn, kết nối anh ta với
vĩnh cửu.
Từ biến cố tinh
thần năm 1916 kéo theo tình trạng giam cầm Hesse trong một dưỡng đường tâm thần
sau cái chết bất ngờ của người cha, phong cách của Hesse và tạo hình nhân vật dần
dần thay đổi và được đa dạng hóa. Những chủ đề liên quan chủ yếu là nhân vật kiểu
Faust (Faustian), bóng tối nguyên khai của tiểu thuyết Demian (1919), ăn khớp với
cấu trúc nhân cách lưỡng cực của người đa diện hay cặp đôi có hình dáng giống
nhau-một chủ đề khác được phát triển từ Nietzsche.
Chấn động của Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất và sự cứu trợ đi kèm với kết thúc của nó đã kéo
Hesse vào một niềm tin sâu sắc rằng những sự bất thường lớn của lịch sử chỉ có
thể được tránh khỏi nếu nhân loại sinh ra một nhóm ưu tú tâm linh cấp cao, kết
hợp những nhà tư tưởng và nghệ sĩ, người có thể đại diện cho tiêu chuẩn của những
người còn lại và loại bỏ cái ác ra ngoài lề của sự hiểu biết cân bằng chung của
xã hội. Hesse cho rằng mỗi người nên nhận ra được sự cá nhân hóa của mình,
không phải bởi đấu tranh, mà là bởi kết hợp nguồn năng lực tăm tối của nhân
cách người đó, và bởi chuyển hóa sự đầy đủ bên trong của tâm hồn người đó vào
chuẩn mực đạo đức được chấp nhận của xã hội. Ánh sáng và bóng tối, được xem như
là sự bện vào nhau của một tâm hồn bị phân chia, sẽ đánh dấu công thức tâm hồn
của Hesse
thông qua tác phẩm “Sói đồng hoang” và “Narziss und Goldmund”. Những cái đó
sẽ được kết hợp với một sự lưỡng phân khác: ảnh hưởng đối chọi của người cha và
người mẹ, là điển hình cho trường phái biểu hiện được phong cách của Hesse tiếp nhận lúc bấy giờ.
Đi kèm trong những mối
quan hệ xung đột vốn cũng là nền tảng cho tác phẩm của Thomas Mann (the
Buddenbrooks, Tristan, Tonio Kroger, Death in Venice ..) là hình ảnh người cha hiện thân cho
sức mạnh vững vàng, làm cho mọi thứ ở trở nên có trật tự, khuôn phép. Tình mẹ,
mặt khác, được kết hợp với xu thế cảm xúc nồng nhiệt, hướng về nghệ thuật. Trường
phái biểu hiện của Đức có chung niềm tin với Schopenhauer và Nietzsche vào sự tồn
tại của năng lượng tối tăm, nguyên khai, cái được biểu hiện ra ngoài để dẫn lối
cho người nghệ sĩ tới sự diệt vong và tới cõi tối tăm. Dựa vào công thức này, mỗi
người nghệ sĩ trước hết thuộc về Mẹ nguyên thủy tối tăm Urmutter, người mẹ với sức
mạnh có thể chảy vào mỗi tạo vật, bất kể hình thức bề ngoài của nó. Cũng như vậy,
mỗi nghệ sĩ, nói một cách trừu tượng, là một hình thái lưỡng phân, khi mà tính
cách của người đó kết hợp sự chắc chắn của người cha và năng lực người mẹ của cói
tối tăm nguyên thủy.
Sự lưỡng phân này đem lại
cho những sáng tác của Hesse một chủ đề quí
báu, đó là “vượt lên” giới hạn của bản thân và nhân cách, “vượt qua” sự phân
chia tâm hồn bên trong thông qua sự kết hợp. Ở trong tác phẩm Narziss
und Goldmund (Death and the Lover), chàng thanh niên Goldmund bị đưa tới
một tu viện bởi người bố tàn nhẫn, để nhận những chỉ dẫn và để xóa bỏ trí nhớ về
những xúc cảm, tính nghệ sĩ của một người mẹ “lăng loàn”. Được sự chăm sóc của
Narziss, một “người cha” và một trong những người thầy trẻ tuổi của nhà tu,
Goldmund trở thành một kẻ chống đối với những bức tường và sự áp bức. Anh ta rời
tu viện, trở thành một nghệ sĩ và một kẻ phong tình, và do đó phát huy được
năng lực thuộc phần người mẹ của mình. Từ đó anh ta không hề ngạc nhiên khi biết
được rằng ở mỗi cô gái anh ta gặp, ở trong mỗi bức tượng đất sét anh ta làm, và
ngay cả trong hình hài của Trinh nữ mà anh ta đã phát hiện, là hình ảnh chôn
vùi của một nguyên mẫu người mẹ, đang kêu gọi anh ta từ thế giới bên trong, hướng
tới sự bùng nổ (exuberance) và sự hủy diệt.
Sự nổi dậy chống lại
hình ảnh người cha (cũng có thể được hiểu là chống lại Đức Cồ Đàm và những bài
thuyết giáo điển hình của Ngài) thể hiện một chủ đề chính của Siddhartha. Câu
chuyện về Ấn độ của Hesse dựa trên sự phát triển
tâm linh nghịch lý của một người Bà la môn trẻ tuổi theo đạo phật. Siddhartha,
một phần nào đó, là một người chống đạo Phật, bởi vì nhân vật chính của Hesse đảo ngược câu chuyện cổ điển của Gautama Buddha,
người đã sống vào thế kỉ VI trước Công nguyên. Dựa vào huyền thoại của Ấn Độ,
người thầy sáng lập ra đạo Phật mang tên Siddhartha lúc sinh thời (họ Gautama),
và đã trở thành Phật Thích ca mâu ni thông qua một quá trình tái sinh của tâm
linh, sau nhiều năm thiền tu và chịu khổ hạnh. Phật tổ đã chạm tới sự toàn giác
thông qua việc ăn chay và ngồi thiền, và thành công trong việc đạt được sự thẩu
hiểu hoàn toàn tâm linh, cái đòi hỏi Phật tổ khả năng cảm nhận sự tập trung
hoàn toàn của bản thân và tiềm năng của sự siêu việt hướng tới cõi Niết bàn.
Một truyền thuyết khác
cho rằng trong khi thực hiện quá trình ăn chay và được các môn đồ sùng bái, Phật
đã khám phá ra sự vô dụng của sự hành xác khổ sở, và quyết định “trở lại” với
thế giới của con người nhằm thuyết giáo về sự cứu rỗi linh hồn. Mặc dù năm trong
số những môn đồ của ông đã bỏ ông bởi vì thất vọng đối với việc thầy của họ dừng
việc thiền tịnh, Phật đã tự đề ra cho mình nhiệm vụ trên con đường thách thức tầm
hiểu biết của đạo Hindu cổ xưa. Ông bắt đầu phát triển cộng đồng của các nhà sư
và những người theo đạo, những người tập trung xung quanh ông và người đệ tử mới
ưu tú nhất của ông, Ananda[4].
Truyền thuyết cổ của Ấn độ phân biệt rõ giữa hai giai đoạn thành công trong sự
nghiệp của Phật, từ lúc bắt đầu quá trình tu hành khổ hạnh, tập trung tinh thần
và sống ở nơi thanh tịnh, sau đó là quá trình kiên quyết đi theo con đường vị
tha nhân bản, thuyết giáo và tình yêu thương. Trong giai đoạn đầu, Phật đạt đến
cảnh giới hoàn thiện bản thân, giúp Người có thể tự chủ và vượt qua chuỗi luân
hồi vô hạn. Điều này đưa đến việc Người vượt ra
khỏi giới hạn của thế giới và hoạt động ngoài vòng xoay của thời gian.
Trong giai đoạn thứ hai, Người quyết định trở thành nhà giáo và là người giảng
đạo, công việc đã trả lại sự nguyên bản của thời gian bên trong ông và khổ hạnh
của người đời. Làm như thế, Đức Phật nhận ra được sự tồn tại của lịch sử và
giúp con người tìm ra con đường thoát khỏi khổ đau và sự thăng trầm của đời sống.
Cốt truyện không chính
thống của Hesse bắt đầu với cuộc nổi dậy của
chàng thanh niên Siddhartha chống lại việc anh ta là một người Bà la môn
(Brahmin). Anh ta cảm thấy rằng học thuyết về đức hy sinh, cái anh được học để
trở thành một Brahmin thực thụ sau này, không thể giúp anh tự khám phá, bởi vì
học thuyết đó bỏ qua những ý nghĩa của việc tu hành khổ hạnh- sự thanh tịnh bên
trong và hiểu biết về bản thân mình. Để khám phá bản ngã mình, Siddhartha rời bỏ
gia đình và gia nhập nhóm những người hành khất sa môn (samanas), những người sống
trong rừng và thường xuyên thực hiện việc tu hành ẩn dật và tập trung tinh thần.
Người bạn Govinda đi cùng Siddhartha. Cuối cùng, gặp được Đức Cồ Đàm đang giảng
dạy tại một vùng lân cận, Siddhartha đạt tới cảnh giới độc lập về tinh thần,
nhưng cũng trải nghiệm sự mặc khải nghịch lí vốn đã được anh theo đuổi với sự khổ
hạnh và hành xác, sự mặc khải. Đó là sự mặc khải đã làm nên khoảng cách giữa
anh ta và thực tại tối thượng.
Để bù đắp cho sự lệch lạc
của mình, Siddhartha quyết đinh rời bỏ các sa môn và hướng tới những ý nghĩa cao
đẹp của cuộc sống thế tục. Làm như thế, anh ta đã tìm lại được những chi tiết
thực nghiệm mà anh đã bỏ qua trước đó: những sắc màu chói lọi của tự nhiên, muôn
vàn gương mặt sống động của con người và đời sống của họ, những hình thù không
đoán trước được của vật chất, và tất nhiên, tình yêu. Bị quyến rũ bởi một cô
gái đẹp, anh cảm thấy sự vô nghĩa của những năm tháng tu hành. Đến một ngôi
làng nọ, anh ta gặp một cô kĩ nữ quyến rũ, Kamala, người đã dẫn anh vào nghệ
thuật của tình ái. Để làm hài lòng nàng với những món quà quí hiếm, anh trở
thành một nhà buôn thành đạt, dưới sự dẫn dắt của một lái buôn già dặn,
Kamaswami. Nhưng anh ta thực hiện việc buôn bán với sự độc lập và niềm vui thú,
như là một nghệ thuật hơn là con đường kiếm sống. Bất chấp thành công trong việc
làm nhà buôn, cuối cùng anh cũng rời xa Kamala và Kamaswami, đi theo người bạn
già Vasudeva sống trên bờ đê của một con sông lớn và trở thành một người lái đò
khiêm nhường.
Những nhân vật và tình
huống trong cuốn tiểu thuyết được xây dựng dựa trên những hiện thực và tượng
trưng của Đạo Phật. Cô kĩ nữ Kamala là hiện thân của cuộc sống trần tục như là
một ảo ảnh của Samsara-dòng chảy bất tận của vòng luân hồi. Dựa trên những gì đạo
Hindu dạy thời xưa, và căn cứ vào nghiệp chướng của một người trong kiếp trước,
linh hồn của họ sẽ phải tái sinh nhiều lần, bị giam cầm trong vòng luân hồi vô
tận.
Những
giáo điều của Phật Giáo cũng dạy rằng thông qua sự sám hối, tu hành và thiền định,
một linh hồn hoàn hảo có thể vượt ra khỏi vòng luân hồi, đạt tới cõi Niết bàn.
Bằng việc rời bỏ đoàn sa môn, Siddhartha tự nguyện tiếp tục cuộc sống của mình
bên trong Vòng luân hồi: sự giam cầm của anh ta và Kamala trong thế giới của những
ảo tưởng được thể hiện qua hình ảnh một con chim sống trong lồng, được cô kĩ nữ
thả ra khi Siddhartha từ bỏ sự nghiệp
nhà buôn và đến sống bên bờ sông.
Mặt khác, Govinda, bạn
của Siddhartha vẫn ở lại con đường tiến tới cõi Niết bàn, từ chối đi theo bạn
mình khi anh rời bỏ cuộc sống tu hành của sa môn. Siddhartha chỉ ra cho anh ta
thấy rằng quyết định của mình là dựa trên một diễn giải không chính thống của học
thuyết cổ điển của Đạo Phật, là một cuộc nổi dậy đơn độc chống lại ý nghĩa cơ bản
của những gì mà thầy dạy. Anh đã giải thích cho Govinda rằng để đạt được sự
hoàn mỹ, Phật phân chia Cõi Niết bàn và Samsara, mặc dù vũ trụ mà chúng ta thấy
không có dấu hiệu nào của sự phân chia. Ngược lại, nó là một sự kết hợp sinh động,
một thể thống nhất mà trong đó cõi Niết bàn và Vòng luân hồi không đối chọi với
nhau mà cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Nếu một nhà triết học mong muốn trở
thành một nhà hiền triết thực thụ, ông ta phải hiểu hết cả hai mặt của Vũ Trụ,
không chỉ Cõi Niết Bàn, khi mà sự thấu hiểu bản thân cũng đòi hỏi sự kết hợp
hài hòa của hai nửa của một linh hồn, chứ không phải sự ban cho đặc quyền nửa
này chống lại nửa kia.
Dòng sông là biểu tượng
chính của sự Toàn mãn trong tác phẩm. Siddhartha và Vasudeva sùng kính nó như
là một người thầy vĩ đại, người kết nối hai nửa của Vũ trụ với nhau và liên kết
Trái đất với sự bất diệt. Con sông lớn đánh dấu trung tâm địa lý trong trí tưởng
tượng trong tiểu thuyết của Hesse . Siddhartha
qua sông nhiều lần: lần đầu, khi anh ta vẫn là một người hành khất (saman), anh
ta học được từ dòng sông rằng mọi vật đều mất đi, trong dòng chảy bất tận liên
kết sự sống và cái chết trong vòng luân hồi của vũ trụ. Sau đó, khi anh ta quay
lại dòng sông làm người lái đò, anh ta trải nghiệm những bí mật mà dòng sông nắm
giữ, đồng thời, từ thời xa xưa, tất cả những nguồn nuôi dưỡng và những “hình ảnh”
của thế giới.
Tiểu thuyết Demian
được xuất bản năm 1919 dưới một bút danh tiếng Anh (Emil Sinclair). Nó được ra
cùng khi với “Sự Trở Lại Của Zarathustra- Một Lời Cho Giới Trẻ Đức”, là một bản
tuyên ngôn ngắn nhưng rực rỡ, qua đó Hesse chào đón cái kết thúc của Chiến
tranh thế giới thứ nhất và thể hiện niềm tin cháy bỏng của ông vào sự xuất hiện
của một kỉ nguyên mới, linh thiêng, vươn lên như một con phượng hoàng vụt lên từ
chính đống tro tàn của nó. Cả hai tác phẩm đều đã thành công rộng rãi, mặc dù
tác giả đã giấu tên thật của mình trong một thời gian. Điều đó là sự thật, ví dụ
như Thomas Mann đã rất quan tâm tới Demian (Mann cũng đã từng so sánh
tác giả của nó với cả James Joyce), đã liên hệ với người chỉnh sửa Samuel
Fischer nhằm tìm ra ai chính là tác giả. Việc này đã giúp ông tạo nên tình bạn
khăng khít với Hesse, hoàn toàn ăn khớp với việc họ đã có quan hệ thư từ qua lại
thường xuyên, việc Hesse ghé thăm gia đình của Thomas Mann ở Montagnola (Bắc Thụy
Sĩ, nơi Hesse bén duyên cùng người vợ thứ hai, Ruth Wenger), và cuối cùng là cuộc
vận động kiên quyết của Mann hướng tới giải Nobel Văn học cho người bạn mình
năm 1946.
Demian, cái tên rõ ràng
làm cho ta liên tưởng đến cái tên cổ “daimon, daemon” (quỷ dữ), có mặt trong tiểu
thuyết trong vai của một thiên thần bóng tối, người giúp nhân vật chính phát
huy năng lực nguyên khai, tăm tối trong tính cách của mình. Người anh hùng
trong tiểu thuyết điển hình cho kiểu người lưỡng cực, từ khi anh ta bị dằn vặt
từ thuở ấu thơ, bởi sự đối chọi giữa hai thế lực đối nghịch bóng tối và ánh
sáng, tạo nên sự giằng co trong nhân cách anh ta. Rời xa gia đình nơi đã mang lại
cho anh ta một tuổi thơ thanh bình, và rời bỏ những người chị em gái hiền lành,
Emil Sinclair cảm thấy cách ứng xử khó gần của mình được qui định bởi một sự
nguyền rủa vô hình nào đó. Max Demian, một người bạn học lớn tuổi và kì dị,
giúp anh ta bộc phát năng lực bị dày vò trong tâm hồn anh ta, thuyết phục anh
ta rằng anh ta mang “dấu ấn” của một người ưu tú bị quỉ ám mà nguồn gốc có thể
được truy về tới Cain, hình ảnh nổi bật đầu tiên về thế lực bóng tối trong Kinh
thánh.
Max Demian dạy Sinclair
rằng mỗi con người nên biết cách “siêu việt” và trở thành siêu nhân, bằng lòng
với sự nguyên vẹn của tồn tại, đó là sự kết hợp của năng lực ánh sáng và bóng tối.
“Siêu việt”, Demian giải thích, nghĩa là sống vượt ra ngoài giới hạn, vượt ra
khỏi cái xấu và cái đẹp, và trải nghiệm tự do như là một sự phun trào tổng thể
của vũ trụ, trong đó Chúa và Quỷ dữ đến cùng với nhau. Đó là sự hăng hái với việc
tạo nên một “tôn giáo mới”, bao bọc bởi những người mạnh mẽ, cô độc, những người
tự tiến tới sự hoàn hảo của con người và vũ trụ, điều đó đã kết nối Demian và
Sinclair lại. Mặc dù con đường của hai người đã chia cắt họ trong một thời
gian, tuy nhiên họ vẫn có chung niềm tin rằng mỗi người nên tìm cho mình một
linh hồn “sinh đôi”, người có thể giúp anh ta phát huy mặt còn bị che khuất
trong tính cách.
Thế
giới Abraxas, đánh dấu một tôn giáo mới, đưa chúng ta trở về với tinh thần “Ngộ
đạo” (Gnostic) cổ xưa. Một chủ đề ngộ đạo khác trong Demian đó là sự mâu thuẫn
của “hai bà Eva”. Một là Eva trong Kinh Thánh, và người kia là Bà Eva, mẹ của
Max Demian, là sự nhân đôi tâm linh của nhân vật Eva trong kinh thánh, người nhắc
ta nhớ lại Gnostic Sophia, sự hiện thân của Tri thức nhân loại và vũ trụ. Người
thông thái trong cái trật tự trí tuệ mới -như tác giả đề xuất-nên tái hòa nhập
dưới sự dẫn dắt tâm linh của Eva mới, trong bối cảnh sự hồi phục lớn hơn của
loài người và nền văn minh mới tạo ra do Chiến tranh thế giới I. Ở khía cạnh
này, những lời nhắn nhủ mang tính ý thức hệ nhân văn của tác phẩm tương đồng với
chủ đề về sự trẻ hóa của tâm linh có chọn lọc, được Hesse đề cập trong Sự Trở
Lại Của Zarathustra.
Kẻ lang thang cô độc,
được thể hiện như là lực lượng bóng tối trong Knulp, cũng là đặc điểm
trong chiều sâu cấu trúc của Sói Đồng Hoang. Nhân vật chính trong
đó, Harry Haller, sống trong bi kịch và tự xa lánh người đời, nhưng anh ta bị
lôi cuốn, giống với Detlef Spinell, gã nhà văn lố bịch từ Tristan của Thomas
Mann, bởi môi trường tư sản có cơ chế một cách hoàn hảo và vững vàng. Anh ta tán
dương những thứ đó như là sự thu nhỏ của những hình thái kiên cố và có kết cấu
vững chắc của xã hội. Harry Haller cũng là một nhân vật lưỡng diện: tâm hồn anh
ta được tổng hợp trong một sự tương phản mang tính bi kịch đối với niềm đam mê
trật tự và “tiếng gọi của loài sói”, cái đã đưa anh ta tới cuộc sống của một kẻ
bị xã hội ruồng bỏ, xa rời sự hiểu biết và lòng thương xót của con người. Hesse có thiên hướng kết hợp hình ảnh kẻ nổi loạn này với
xã hội chung của cái được gọi là “nghệ thuật của tầng lớp dưới”, bao gồm ảo thuật
gia, diễn viên xiếc, phù thủy lang thang và người biểu diễn nhào lộn. Những gì
mà Hesse cũng có chung với Thomas Mann đó là
niềm khát khao để phơi bày ra rằng chính nghệ thuật nó có hai trình độ của tự-biểu
hiện: một cái hùng vĩ đi theo cái thiên tài, và một cái châm biếm, lố bịch thì
kết hợp với hình ảnh tên hề. Tình yêu của Harry dành cho một cô gái, Hermine,
người cũng mang dấu vết lưỡng tính của Hermes, (một vị thần Hi Lạp trông cửa ra
vào thế giới ngầm) đã đưa anh ta vào một “Hí viện ảo dị”, trong đó hai mảnh của
tâm hồn anh ta sẽ hòa thành một.
Tinh hoa của lòng tin của
Hermann Hesse vào sự tồn tại của một “cấp bậc thuần túy” của thi sĩ và nhà tư
tưởng đã định hướng cho ông trong suốt cuộc đời, đóng một vai trò quyết định
trong sự lựa chọn của ông để trở thành công dân Thụy Sĩ năm 1923. Nhận thức của
ông về đất nước Thụy Sĩ gồm hai phần. Một bên, nó đã thể hiện sự độc lập chính
trị, đất nước “hoàn hảo” của vùng Alps, nơi đã nuôi nấng J.J.Bachofen, Jacob
Burchkardt[5]
và Nietzsche, tất cả họ đều là những giáo sư xuất sắc của Đại Học Basel. Mặt
khác, đây là mảnh đất rạng rỡ của những người ưa hòa bình, trung tâm văn hóa,
thuần khiết, không mang tư tưởng chính trị Đức, cái mà Hesse cố gắng thể hiện
trong những bài báo và bản tuyên ngôn chống lại Hitler và Đức Quốc Xã. Niềm tin
mãi mãi của ông rằng người nghệ sĩ nên quây quần bên nhau trong một hội cấp
cao, được dẫn dắt bới những giá trị phi phàm và sự rộng lượng chung, đã được
đưa vào tiểu thuyết Die Morgenlandfahrt (Hành trình về phương Đông, 1932) và Das Glasperlenspiel
(1943), một xã hội tâm linh không tưởng, huy hoàng được dựng vào năm 2200.
Niềm tin rằng con người
nên thực hiện sứ mệnh nằm trong mỗi con người, đã định hướng cho cuộc đời của
ông. Đặc điểm này được thừa hưởng từ gia đình những người truyền giáo cả hai
bên nội ngoại của nhà văn. Sinh ra năm 1847 tại Estonia, người cha ngoan đạo của
ông, Johannes Hesse, đã phụng sự việc truyền đạo thiên chúa tại Ấn độ. Tại đó
ông gặp mẹ của Hesse , Marie Gundert (sinh
1842), người cũng thuộc gia đình truyền giáo. Trở lại Đức năm 1873, họ kết hôn
với nhau và sống ở một ngôi làng thuộc Calw, gần khu Rừng Đen, trong vùng đất
Württemberg, và điều hành một nhà phát hành sách truyền giáo, dưới sự chỉ dẫn của
ông ngoại của Hesse, Hermann Gundert. Như là một hệ quả, Hesse luôn luôn chia sẻ
ý kiến rằng mỗi chúng ta nên trở thành một người theo chủ nghĩa nhân đạo ưa hòa
bình, và cái văn hóa đó, được dựng lên bởi những nhà tư tưởng và nghệ sĩ lỗi lạc
với những nhu cầu nhân đạo thuần túy, có thể chữa lành tất cả những vết thương
của một nền văn minh nặng về vật chất và bị dày xéo.
Hành trình về phương Đông
gợi lên hào khí của cuộc thập tự chinh thời trung cổ, mặc dù tác phẩm bám vào
hiện thực của thế kỉ 20. Nhân vật chính trong tác phẩm, được gọi là H.H (hầu hết
các anh hùng trong những tác phẩm của Hesse đều
ẩn chứa tính tự truyện), tham gia một phong trào tự do tư tưởng, đoàn kết những
cá nhân văn hóa ưu tú một thời. Những thành viên của họ, tập trung lại thành
nhóm, chu du khắp châu Âu, rồi hướng tới phương Đông xa xôi. Mục đích cơ bản của
cuộc tuần hành của họ là sự thôi thúc về văn hóa cho mỗi người. Cộng đồng lang
thang đó được điều hành bởi một hệ thống cấp bậc chặt chẽ, nó khảo sát sự hiến
dâng và sự tự thực hiện của mỗi thành viên một cách nhân từ. Không có chỗ cho
những chính trị gia trên chuyến đi: những người tham gia hành động và suy nghĩ
vượt ra khỏi thời gian và lịch sử, được chỉ dẫn bằng những qui luật riêng trong
tổ chức của họ.
Một nơi vượt thời gian như
Castalia, là một cộng hòa kiểu đảo quốc của những người chơi Trò hạt
ngọc thủy tinh, cuốn tiểu thuyết với tiêu đề đồng âm (Das Glasperlenspiel),
được xuất bản năm 1943, vào thời điểm cao trào của Chiến tranh thế giới thứ hai,
như là bản tuyên ngôn độc lập của cá nhân và là một sự phản kháng. Người thanh
niên Josef Knecht, một bậc thầy của trò chơi trong tương lai, là một học trò với
những khả năng xuất sắc. Những ưu thế đó khiến anh ta được chọn vào một ngôi
trường đặc biệt ở Castalia, một cấp bậc của tư tưởng được điều khiển bởi một hệ
thống nghiêm khắc nhưng nhân đạo của những quan chức và bậc thầy trong mười hai
nhánh của khoa học nhân văn. Nhóm đặc biệt xuất sắc của hệ thống cấp bậc bao gồm
những người chơi trò hạt ngọc thủy tinh xuất sắc, tinh tế bằng việc tổng hợp tất
cả các nghệ thuật và biểu tượng của chúng vào một tổng thể dựa trên những luật
lệ liên kết giữa toán học và âm nhạc. Trò chơi đòi hỏi một sự bắt đầu đặc biệt,
theo kiểu Pythagor để tập cho người chơi làm quen với nghệ thuật của tư tưởng
tương hợp. Thành công gồm cả việc trung hòa dao động tâm lí của những người
chơi, như nó đã xảy ra trước đó đối với những người Gnostics.
Tiểu thuyết là một thế
giới không tưởng: những gì diễn ra trong đó được dựng trong bối cảnh năm 2200,
nó cũng được đánh dấu, trong niềm tin của Hesse, là sự kết thúc của thời kì “hiếu
chiến” và “sơ khai” của thời đại anh hùng. Kỉ nguyên mới ở Castalia nơi mà tinh
hoa tư tưởng cư ngụ tại vùng đất trung tâm, bị thiếu thiên tài và sự sáng tạo,
nhưng có khả năng phục chế những biểu tượng và công thức thành một mạng lưới
tinh vi của sự tương đồng văn hóa. Tất cả những cư dân của Castalia đều là bậc
thầy xuất sắc trong lĩnh vực của họ, được chắt lọc kĩ lưỡng và kiểm soát trong
hàng thập niên của quá trình hình thành nên họ. Họ sống vượt ra cả thời gian và
lịch sử, trong trạng thái trung hòa, tâm hồn thanh thản. Castalia dù sao cũng
thể hiện một gánh nặng về tài chính của nhà nước phúc lợi (altruistic state).
Khi lịch sử của lãnh hạt bên ngoài tăng tốc phát
triển, đi vào một kỉ nguyên mới của rối loạn chính trị và giao tranh, thế giới
này sẽ biến mất.
Tác phẩm nói về câu
chuyện của Josef Knecht, người hoàn thành sự thăng tiến trong hệ thống cấp bậc
bằng việc trở thành một bậc thầy đáng kính, bậc thầy của trò chơi hạt ngọc Thủy
Tinh. Trên đường thăng tiến của mình, ông được gửi gắm bởi những quan chức của
Castalia để hoàn thành nhiều nhiệm vụ bên ngoài. Một chuyến đi đưa ông đến một
tu viện dòng Benedictine, nơi ông gặp Pater Jakobus, một trong những thủ lĩnh
tư tưởng của Nhà thờ dòng Catholic. Hesse mô tả thầy tu già như một bản sao của
Jacob Burckhardt, giáo sư và là một học viên cũ của Nietzsche tại đại học Basel . Đây là một động
thái đùa cợt đối với cảnh ngộ của chính Hesse ,
như là một người di cư tự nguyện vào vùng chính trị trung lập của Thụy Sĩ, bao
quanh bởi sự dữ dội của Chiến tranh thế giới thứ hai. Dưới sự chỉ dẫn của Pater
Jakobus, Josef Knecht bắt đầu với nghệ thuật của lịch sử và nhận ra rằng ngay cả
Castalia cũng có khuynh hướng bị tàn lụi, những mâu thuẫn được nó chấp nhận
cũng đầy miễn cưỡng (ngoại trừ những giá trị tâm linh) và số phận của nó mong
manh một cách hiển nhiên. Với nhiều năm phụng sự trên cương vị là một bậc thầy
xuất sắc, Knecht đã trải qua một chấn động gây ra bởi lòng tin của ông ta rằng
với việc giữ nguyên một Castalia biệt lập, dù sao ông cũng đóng góp cho sự bí ẩn
cho phép vùng đất tồn tại, trong khi không có khả năng điều khiển vận mệnh của
chính nó. Để giải quyết tình huống tiến thoái lưỡng nan, Josef Knecht quyết định
rời bỏ trách nhiệm và tiếp tục cuộc sống của một giáo viên dạy tư tại một ngôi
nhà thuộc về tục của một người bạn và là một người từng đối lập với ông, chính
trị gia Plinio Designori. Không hòa nhập được với hoàn cảnh mới, ông ta chết gần
như tức khắc, trong khi bơi trong một hồ nước lạnh trên dãy Alps ,
được soi rọi bởi mặt trời buổi bình minh.
Đại
học Babes-Bolyai, Cluj-
Napoca, Romania.
Hồi xưa mình cũng làm luận văn về H.H, nay tình cờ đọc được mấy bài viết của bạn, cảm giác như gặp lại cố nhân. Mình rất thích H.H! Cảm ơn bạn về bài viết!
Trả lờiXóabán quần áo tập gym
Trả lờiXóacảm ơn bài viết của bạn rất ý nghĩa
Trả lờiXóachăn ga sông hồng